ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI SỐ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số. Quá trình này đã, đang và sẽ thay đổi diện mạo xã hội nói chung, nghành giáo dục nói riêng. Ngành giáo dục có cơ hội khai thác “Dữ liệu lớn” để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý và quá trình dạy-học. Tuy nhiên, tư duy và thói quen từ đội ngũ đào tạo và sản phẩm sau đào tạo, còn nhiều hụt hẫng, bất cập. Các yếu tố gây cản trở có thể kể đến từ hành lang pháp lý, kinh phí trong vận hành và tính liên thông của cơ sở dữ liệu. Để ngành giáo dục đào tạo phát triển bền vững, vấn đề xây dựng văn hóa số mà trước hết là đào tạo kiến thức, kỹ năng công nghệ phải được lưu ý trước tiên nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ chuyển đổi số.
1. Đặt vấn đề
Loài người đang bước vào kỷ nguyên số. Số hoá đã và đang là một tiến trình lớn và sâu rộng của xã hội. Nó làm thay đổi và buộc các khách thể phải thích ứng. Giáo dục và đào tạo là một trong những đối tượng chịu sự tác động mạnh nhất của thời kỳ chuyển đổi số. Do vậy, việc đào tạo đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên mầm non nói riêng là vấn đề hệ trọng và cấp bách. Đây cũng chính là điểm nhấn mạnh được văn kiện Đại hội XIII Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”. Bài viết này đề cập đến đào tạo đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Đồng Tháp làm sáng tỏ thực trạng và tìm kiếm các giải pháp phù hợp nhất cho thời kỳ chuyển đổi số này.
Cán bộ của Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục
đi nghiên cứu thực tiễn GDMN tỉnh Lào Cai
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Những vấn đề chuyển đổi số trong đào tạo hiện nay.
Số hoá hay chuyển đổi số đang được các giới chuyên môn bàn luận liên tục trong thời gian qua. Theo Tech Republic - Tạp chí trực tuyến, cộng đồng xã hội dành cho các chuyên gia CNTT, khái niệm chuyển đổi số là “Cách sử dụng công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn hoặc hiệu quả hơn.”. Microsoft lại cho rằng: “Chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới.”. Nói cách khác, chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số. Đối với FSI - doanh nghiệp chuyển đổi số hàng đầu Việt Nam: “Chuyển đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số, bằng cách áp dụng công nghệ mới như điện toán đám mây (Cloud), dữ liệu lớn (Big data), Internet vạn vật (IOT), …thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty…”. Công nghệ số, cho phép tính toán nhanh hơn, xử lý dữ liệu nhiều hơn, truyền tải dung lượng lớn hơn, với chi phí rẻ hơn nhưng mang lại dữ liệu lớn về trí tuệ nhân tạo, góp phần phát triển mọi hoạt động trong đó có giáo dục và đào tạo. Đào tạo là công việc chuẩn bị cho tương lai. Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức cho rằng: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”. Trong thực tiễn, việc chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo ở một số nước như: Bắc Mỹ ứng dụng e-learning để biến đổi mô hình học tập truyền thống. Số lượng học sinh trong giáo dục truyền thống được dự đoán sẽ giảm 2 triệu trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2030 “E-learning” cũng được áp dụng trong đào tạo nghề: khoảng 10% các công ty sử dụng các khóa học trực tuyến mở rộng (MOOCs) để đào tạo nhân viên của họ nhằm nâng cao tiếp cận giáo dục nhờ công nghệ số, đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng số, và dự kiến sẽ tăng thêm khoảng một phần ba vào năm 2030. Ai Cập, Hoa Kỳ sử dụng hệ thống quản lý học tập mã nguồn mở và miễn phí như Moodle (Modular Object-Oriented Dynamic Learning Environment.Trường Cao đẳng Du lịch Oman OTC (Oman Tourism College) đã sử dụng hệ thống Moodle làm hệ thống quản lý học tập bắt đầu vào năm 2014 với 20 khóa giáo dục đại học và 560 người dùng, năm 2017 đã tăng tên 122 khóa học, cung cấp cho tất cả sinh viên chương trình cơ sở giáo dục chung và chương trình đại học. (Nguồn từ bộ thông tin và truyền thông cục chuyển đổi số quốc gia ngày 28/7/2022). Một nhà khoa học người Mỹ Ông Claude Elwood Shannon cha đẻ của lý thuyết thông minh cho rằng “Lý thuyết thông tin của Shannon như là bản tổng kết về nhận thức và ứng dụng hệ nhị phân vào thực tiễn và là minh chứng đầy đủ nhất cho thuyết của G. W. Leibniz về tính quy giản phổ quát của nhận thức, mở ra thời đại công nghệ thông tin thay đổi thế giới loài người”. Với Ông Nandasena Gotabaya Rajapaksa (Sri Lanka, Ấn Độ Dương) tuyên bố giai đoạn 2021-2030 là: “Thập kỷ phát triển kỹ năng”. Giáo dục và đào tạo kỹ thuật- nghề (TVET) sẽ đóng một vai trò quan trọng để hiện thực hóa “Thập kỷ phát triển kỹ năng”. Với Việt Nam việc chuyển đổi số được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số GDĐT giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 và “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Thực hiện theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính Phủ. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/4/2023, Bộ GDĐT tổ chức “Hội thảo chuyển đổi số giáo dục đại học năm 2023”. Như vậy, có thể hiểu, việc đào tạo trong thời kỳ chuyển đổ số để phát triển bền vững đội ngũ giáo dục trong đó có viên mầm non, là làm cho đội ngũ phát triển cả về số lượng và chất lượng, gắn với việc đào tạo, tuyển dụng, sắp xếp, bố trí. Hiện nay ở tỉnh Đồng Tháp đã, đang cải tiến trong đào tạo giáo viên mầm non với những tiêu chí của nền tảng khoa học trong quá trình đào tạo, gắn với quá trình sử dụng, phân loại và đào thải.
Tập huấn giáo viên mầm non tỉnh Đồng Tháp
2.2 Thực trạng trong đào tạo đội ngũ giáo viên mần non thời kỳ chuyển đổi số hiện nay
Giáo dục trong thời kỳ chuyển đổi số là một nền giáo dục phát triển thông minh, của một xã hội hiện đại về kinh tế tri thức với nhiều cơ hội để mở rộng hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những kiến thức hiện đại, chọn lọc, thích hợp có khung pháp lý cho cơ sở đào tạo theo: “Quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học” (Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT, ngày 22-6-2021, của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Việc đào tạo các chương trình giáo dục nơi thủ phủ đất sen hồng cần: “Chuyển đổi số và thích ứng nhanh”, đây là chủ đề mà cơ sở đào tạo ngành sư phạm trong tỉnh Đồng Tháp, trường Đại học Đồng Tháp đã xác định ngay từ năm học: 2021- 2022. Luôn cải tiến chất lượng trong đào tạo để thích ứng chuyển đổi công nghệ số nhằm tiếp cận giáo dục khoa học theo xu thế hiện đại về chính sách đãi ngộ, môi trường, trang thiết bị và có cả đội ngũ giảng viên “hồng vừa chuyên” để tạo nên thương hiệu, giá trị “lõi” cho cơ sở đào tạo. Trường Đại học Đồng Tháp được xếp thứ 15 trên tổng số các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ GD&ĐT và xếp hạng 53 trong danh sách 180 trường đại học của Việt Nam trong bảng xếp hạng Webometrics…Với qui mô 11 khoa, có 01 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ: Quản lý giáo dục và 10 chuyên ngành đào tạo trình độ Thạc sĩ với 12 phòng chức năng, 5 trung tâm, 1 trường thực hành sư phạm mầm non và 1 trường tiểu học - trung học cơ sở - trung học phổ thông. Tính đến tháng 2/2023, Trường có 548 viên chức và người lao động. Trong đó, có 508 viên chức và 40 nhân viên. Trình độ đội ngũ viên chức giảng dạy: 17 phó giáo sư, 90 tiến sĩ, 333 thạc sĩ và 12 cử nhân đại học (giáo viên mầm non), trường đang đào tạo 23 nghiên cứu sinh, 808 học viên cao học với 6.481 sinh viên chính quy và 8.000 sinh viên hệ liên thông, vừa làm vừa học tại 33 cơ sở liên kết đào tạo thuộc các tỉnh trong và ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Nguồn từ trang giới thiệu về trường Đại học Đồng Tháp). Thống kê trong năm 2021 trường Đại học Đồng Tháp đào tạo 926 SV tốt nghiệp chính quy, trong đó giáo dục mầm non 201SV, hệ Đại học: 166 SV, CĐ: 35 SV. (Nguồn từ báo cáo số: 207/BC-ĐHĐT, Đồng Tháp ngày 13/1/2023 về tình hình việc làm của sinh viên năm 2021). Với sinh viên mầm non ra trường nhận công tác tại tỉnh Đồng Tháp đối ứng cho 184 trường mầm non (45 trường mẫu giáo, 139 trường mầm non), trong đó có: 174 trường công lập (tỷ lệ 94,57%) 10 trường ngoài công lập (Nguồn số liệu thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Tháp về kết quả thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non học kỳ I năm học 2022- 2023). Cấp học mầm non toàn tỉnh Đồng Tháp có 4.319 CBQLGV, trong đó số giáo viên cần đào tạo Theo kế hoạch số: 345/KH-UBND. Đồng Tháp ngày 11 tháng 12 năm 2021. Kế hoạch về Nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở chưa đạt chuẩn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 1 (2022 - 2025), riêng đội ngũ CBQLGV mầm non là: 166 người (trong đó, năm 2022: 80 người; năm 2023: 44 người; năm 2024: 42 người; năm 2025: 00 người). Bảng số liệu dưới đây cho thấy kết quả đào tạo trong 02 năm 2020-2021.
Năm học |
Tổng số CBQL, GV |
Công lập |
Ngoài công lập |
||||||
ĐH trở lên |
CĐ |
THSP |
Chưa qua ĐT và ĐT khác |
ĐH trở lên |
CĐ |
THSP |
Chưa qua ĐT và ĐT khác |
||
2020 |
4.314 |
2964 |
465 |
291 |
2 |
330 |
78 |
108 |
76 |
2021 |
4.319 |
3177 |
435 |
162 |
0 |
292 |
105 |
106 |
42 |
Tăng (+) Giảm (-) |
+5 |
+213 |
-30 |
-129 |
-2 |
-38 |
+27 |
-2 |
-34 |
Bên cạnh những cơ hội từ kỷ nguyên chuyển đổi số mang lại, vấn đề đào tạo giáo viên mầm non còn một số tồn tại bất cập như sau:
Nhận thức chưa đầy đủ về chuyển đổi số
Về phía người quản lý và giảng dạy vẫn tư duy lối mòn và thói quen cũ. Phần lớn người dạy ngại áo dụng công nghệ tiên tiến, do chi phí thời gian và thao tác cụ the73 về kỹ thuật mạng và các phần mềm. Sinh viên thì có khuynh hướng đề cao danh hiệu” Đại học quốc tế chất lượng cao”, chạy theo văn bằng, lạm dụng về chuyển đổi số trong thi và trực tuyến.
Cơ sở vật chất còn thiếu, lạc hậu
Cơ sở vật chất và trang thiết bị được lắp đặt theo kiểu “cho có, cho đủ”, chưa phù hợp thời kỳ chuyển đổi số. Nhiều nơi hạ tầng mạng chư được bảo đảm.
Kinh phí còn hạn chế
Nguồn kinh phí đầu tư cho lộ trình chuyển đổi số còn hạn hẹp, theo kế hoạch một cách “nhỏ giọt”. Chính sách về lương, đãi ngộ không đủ thu hút người có tài, có năng lực tự nguyện an tâm công tác ở các trường mầm non.
Pháp lý thiếu nhất quán và đồng bộ
Cơ sở pháp lý về chuyển đổi số chưa có tính nhất quán thiếu liên thông và đồng bộ. Các quyền về chia sẽ dữ liệu trong đào tạo, quyền sở hữu trí tuệ và quản trị mạng, an ninh thông tin chưa rõ ràng.
Quản lý còn lỏng lẻo
Nhu cầu học tập và nghiên cứu của người học, cần kho tài liệu số chuẩn xác, số liệu thì tràn lan, thiếu tính xác thực cũng như không được kiểm soát về nội dung nên gây ra nhiều hệ lụy khác, quản lý quyền sở hữu trí tuệ cũng như an ninh thông tin chưa rõ ràng, việc triển khai toàn diện nhưng chưa đồng nhất và chặt chẽ cũng gây ra nhiều bất cập trong quá trình thực hiện chuyển đổi số. Trách nhiệm và phân quyền trong quản lý ở các cấp đối với công tác đào tạo GVMN chưa xác lập đầy đủ “thừa thiếu” không chỉ về số lượng, mà còn về nội dung thích ứng kỷ nguyên số
2.3. Giải pháp trong đào tạo ngũ giáo viên mầm non thời kỳ chuyển đổi số ở tỉnh Đồng Tháp
Để nâng cao chất lượng phát triển bền vững trong đào tạo cho đội ngũ giáo viên mầm non trong thời kỳ chuyển đổi số cần có cách tổ chức để quản trị con người theo cơ chế giám sát để không tạo ra khe hở trong đào tạo chạy theo số lượng như “ mạng ảo”. Đội ngũ đào tạo và sau đào tạo phải có khả năng tự giác trong lĩnh hội truyền thụ và tạo lập có niềm đam mê nghiên cứu trong khoa học, tư duy khoa học và năng lực sáng tạo và cần hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị trong đào tạo, nâng cấp Trung tâm đào tạo, tư vấn và Chuyển giao công nghệ thành một đơn vị chuyên trách hoạt động đào tạo công chức, viên chức giống như các Trường, Trung tâm đào tạo công chức, viên chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Trong thời gian tới, một số giải pháp sau cần được thực hiện đồng bộ, đầy đủ:
Một, nâng cao tầm nhìn và tính thích ứng trong cơ sở đào tạo và đối tượng được đào tạo.
Sự hội nhập và phát triển kỳ diệu của KH-CN buộc các chủ thể cơ sở đào tạo phải có tầm nhìn chiến lược và nhạy bén với thời cuộc. Theo đó họ cần được bồi dưỡng liên tục về triết lý giáo dục mới để việc ban hành quyết định, quy tắc, trong thực hiện nhiệm vụ diễn ra một cách minh triết dựa trên triết lý của giáo dục, khai phóng thích ứng. Các nội dung phương pháp tích cực ưu việt trong công nghệ chuyển đổi số cần được tiếp tục kế thừa bởi chất lượng đào tạo sinh viên, uy tín, thương hiệu của nhà trường là đích đến.
Hai, lập kế hoạch quản trị trong cơ sở đào tạo.
Đây là đặc điểm quan trọng không những để định hướng cho việc thay đổi giáo dục mà còn định hướng “học tập suốt đời”, còn trở thành “sợi chỉ đỏ” hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi nhà quản quý.
Quản lý nhân sự trong đào tạo là tạo niềm tin để phát triển năng lực chuyên môn, tránh thừa thiếu cục bộ, gắn kết nội bộ về tư tưởng chính trị. Xây dựng văn hóa nhà trường, cải tiến, lời nói đi đôi với việc.
Ba, phương thức đa dạng hóa các hình thức đào tạo.
Gắn kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục đào tạo sinh viên dựa trên xu thế hội nhập phát triển khoa học- công nghệ vì trong giáo dục không thể tạo ra sản phẩm lỗi.
Đa dạng hoá, linh hoạt trong chính sách tự chủ, tự chịu trách nhiệm mang đến giá trị thặng dư cho đối tượng lao động một cách chính đáng và hợp pháp.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong chuyển đổi số tuy không có một công thức dành riêng cho quá trình này, nhưng hoàn toàn có thể vận dụng internet, mạng để đánh giá hiệu quả chất lượng đào tạo trong giáo dục để định hướng quá trình chuyển đổi phù hợp với nhu cầu thực tiễn, đây là nơi gắn kết thông tin nhanh đánh cấp được thời gian hợp pháp khoa học tạo nên môi trường phù hợp trong hội nhập phát triển.
Bốn, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ.
Huy động các nguồn lực chính phủ, phi chính phủ để tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị đảm bảo theo lập dự báo giáo dục và công nghệ đuổi kịp thời kỳ hội nhập, chuyển đổi số, hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở đào tạo về quản lý cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo giáo dục toàn diện.
3. Kết luận
Xã hội loài người luôn vận động, biến đổi không ngừng. Quá trình số hoá, chuyển đổi số là một bước phát triển lớn, thay đổi căn bản và toàn diện xã hội. Đào tạo nguồn nhân lực nói chung, riêng cho bậc học nền tảng đội ngũ giáo viên mầm non là sự chuẩn bị căn bản và bước đi trước cần thiết. Nhận thức đúng thành công, hạn chế để có được các giải pháp đồng bộ có tính quyết định cho tương lai của sự nghiệp "trồng người". Khi chúng ta thấu hiểu, có kế hoạch cụ thể và chu đáo cộng với tính kiên trì và quyết tâm cao thì việc đi cùng nhịp bước của thời đại là điều chắc chắn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[2]. Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18-10-2016 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khung trình độ quốc gia Việt Nam.
[3]. Kế hoạch số: 345/KHUBND Đồng Tháp ngày 11 tháng 12 năm 2021. Kế hoạch về Nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở chưa đạt chuẩn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 1 (2022 - 2025).
[4]. Báo cáo số: 207/BC-ĐHĐT, Đồng Tháp ngày 13/1/2023 về tình hình việc làm của sinh viên năm 2021.
[5]. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính Phủ Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
Nguyễn Thị Linh Phương
Phó hiệu trưởng Trường Mầm non Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh- Đồng Tháp