1. Vấn đề hôm nay
  2. >
  3. Tiêu điểm

BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI TRONG VIỆC TRUYỀN THÔNG

01:23 | 13/01/2024
aA

 1.Đặt vấn đề

Bạo lực học đường luôn là vấn đề thời sự, cả xã hội quan tâm.Ngay cả ở các nước phát triển bạo lực học đường cũng là những vấn đề mà các Nhà giáo dục và Nhà xã hội học dày công nghiên cứu.Trên các trang mạng (tiếng Pháp, Anh, Nga) đã công bố nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này. Nhiều bài viết đã nêu hiện trạng, phạm vi, lứa tuổi, nguyên nhân của bạo lực học đường và giải pháp phòng chống bạo lực học đường. Nhiều bài viết đã ít nhiều bàn luận về bản chất của bạo lực học đường.Vấn đề bạo lực gắn với vấn đề gây gổ, gây hấn giữa người với người. Vấn đề này đã được nghiên cứu hàng trăm năm nay, tiếp sau đó là các nghiên cứu cụ thể hơn tình trạng bạo lực trong nhà trường.

Ở châu Âu, đã có các công trình nghiên cứu bạo lực học đường ở 11 nước. Ở Mỹ, Bộ Giáo dục và nhiều Viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm Tâm lý học (Academic Search Complet, Educational Rech Information Clearinghouse,Medline) tham gia nghiên cứu vấn đề này và đã cung cấp một vài hiện trạng: 20% học sinh các lớp 9-12 hay bị bắt nạt, có tới 5% các em bị bỏ học. Một số công trình nghiên cứu khác không dừng ở chuyện bắt nạt mà xem xét vấn này ở mức cao hơn là trẻ đánh nhau, côn đồ. Theo thống kê của Mỹ, năm 2011, trong số học sinh từ lớp 9-12, chỉ trong 12 tháng có 16% học sinh nam và 7,8% học sinh nữ đánh nhau tại trường, 7% học sinh có mang vũ khí tới trường (Youth Violence Fact Sheet, 2012,2015. Tìm hiểu bạo lực học đường tiếng Anh, Mạng Yahoo 11-5-2016)   

Ở nước ta, Vấn đề này cũng đã được đăng tải nhiều bài viết, bài nghiên cứu, các cuộc trao đổi khảo sát thường nhật và có cả một số bài nghị luận về bạo lực học đường. Qua khảo sát của một đề tài nghiên cứu của Viện KHGD Việt Nam cho thấy 51,6% học sinh liên quan đến bạo lực học đường (Phạm Minh Mục, 26-3-2015). Với 200 phiếu khảo sát bạo lực trong nữ sinh 2 trường trung học phổ thông ở Hà Nội do trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN tiến hành cho thấy 97,7% công nhận là ở trường em có bạo lực, 44% cho rằng rất thường xuyên xảy ra, 38% là thường xuyên và 45% cho đó là chuyện bình thường. Điều tra năm 2012 của các nhà nghiên cứu xã hội học, cho thấy bạo lực học đương tăng 10 lần so với năm 2002 (Thegioivanhoc.net,12-5-2016, Nghị luận về vấn đề bạo lực học đường trong thời gian qua).

        Năm 2016, Hội Khoa học Tâm lý học-Giáo dục học Việt Nam đã tổ chức Hội thảo: “Phòng chống bạo lực học đường trong bối cảnh hiện nay- Thực trạng và giải pháp”, tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hội thảo đã thu hút được gần 200 nhà khoa học, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý giáo dục các cấp và đông đảo giáo viên, cộng tác viên tham gia. Hội thảo đã có trên 50 báo cáo tham luận.Các báo cáo tập trung vào mô tả thực trạng bạo lực học đường và cũng đã đề xuất một số giải pháp góp phần giảm thiểu tình trạng trên.

          Tháng 7/2019, Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục cũng đã tổ chức Hội thảo khoa học: “Bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục phổ thông hiện nay – Vấn đề và giải pháp”. tại Hà Nội. Đã có 100 nhà khoa học, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý giáo dục các cấp và đông đảo giáo viên trong các cơ sở giáo dục phổ thông tham gia. Hội thảo đã nhận được gần 50 báo cáo tham luận.Các báo cáo tập trung vào vấn đề bạo lực học đường và cũng đã đề xuất các giải pháp góp phần phòng chống bạo lực hoc đường hiện nay.

          Rõ ràng, vấn đề bạo lực học đường là một trong những vấn đề rất thời sự, cả xã hội đang bức xúc. Nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục, Ngày 18 tháng 12 năm 2017, Bộ GD&ĐT đã có Thông tư số 31/2017/TT-BGDĐT hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn Tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông. Mục đích của công tác tư vấn tâm lý giúp cho nhà trường phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra bạo lực; góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng, chống bạo lực học đường.

         Cùng thời gian này, Bộ GD&ĐT đã tổ chức xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trong nhà trường; Ngày 3/10/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1299/QĐ – TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018 - 2025”. Theo đó, 100% trường học phải xây dựng bộ Quy tắc Văn hóa ứng xử.Bộ Quy tắc ứng xử này được áp dụng ngay từ năm 2018 - 2020, 100% trường học xây dựng và thực hiện bộ quy tắc ứng xử trong trường học theo quy định quy tắc ứng xử do Bộ GD&ĐT ban hành, phù hợp với điều kiện và đặc trưng vùng miền của mỗi nhà trường. Phải chăng đây chính là những giải pháp cấp bách để hạn chế và giảm thiểu bạo lực học đường.Để nghiên cứu sâu về vấn đề này, chúng ta hãy bắt đầu từ những khái niệm cơ bản của bạo lực học đường.

2. Một số vần đề có tính lý luậnvà thực trạng bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục phổ thông

2.1.Khái niệm về bạo lực học đường.

- Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bạo lực học đường, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về khái niệm bạo lực. Hiểu một cách đơn giản, bạo lực học đường là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi, mang tính miệt thị, đe dọa, khủng bố người khác, để lại thương tích trên cơ thể, thậm chí dẫn đến tử vong, đặc biệt là gây tổn thương đến tư tưởng, tình cảm, tâm lý cho những đối tượng trực tiếp tham gia.

- Bạo lực học đường trước hết phải hiểu nó là hiện tượng bạo lực xảy ra ở học sinh, thường thể hiện qua những hành vi kết băng nhóm, hăm dọa bạn bè, ăn hiếp người nhỏ hoặc yếu thế. Nó còn qua hành vi trấn lột đồ, tiền của bạn khác, hoặc thậm chí, có thể do ghét nhau lâu ngày, dẫn đến xô xát hoặc đánh nhau có hung khí… Thuật ngữ bạo lực học đường ở nước ta thường dùng để chỉ các cuộc xung đột, ẩu đả giữa các nhóm, trong nội bộ học sinh hoặc giữa học sinh với người dạy và ngược lại ở trong và ngoài nhà trường.

- Một cách hiểu khác: Bạo lực học đường là những hành vi cố ý sử dụng vũ lực hoặc quyền lực của học sinh (hoặc giáo viên) đối với những học sinh, giáo viên hoặc những người khác và ngược lại, xảy ra trong và ngoài nhà trường. Đó có thể là những hành vi bạo lực về thể xác, bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình dục, bạo lực ngôn ngữ, bạo lực trực tuyến, những bắt ép về tài chính hoặc những hành vi khác có thể gây ra nhưng tổn thương về mặt tinh thần hoặc thể xác.

          Trong nhiều nghiên cứu về bạo lực học đường đăng trên các báo và tạp chí gần đây, các nhà nghiên cứu đều có đề cập đến các yếu tố như xâm hại, người gây hại, người bị hại, môi trường học đường, môi trường giáo dục… là các yếu tố quan trọng hình thành khái niệm. Một cách tổng quát, chúng ta có thể hiểu bạo lực học đường là những hành vi xâm hại đến tính mạng, tài sản, sức khỏe, tinh thần, uy tín, danh dự của người bị hại trong môi trường học đường.Có 3 mức độ tiếp cận khái niệm bạo lực học đường bao gồm:

Theo nghĩa hẹp: Là những hành vi xâm hại giữa học sinh với học sinh trong cùng một trường diễn ra bên trong hay bên ngoài khuôn viên nhà trường.

Theo nghĩa rộng: Là những hành vi xâm hại giữa học sinh với học sinh hoặc giữa học sinh với giáo viên hoặc giữa giáo viên với giáo viên diễn ra bên trong hay bên ngoài khuôn viên nhà truờng.

Theo nghĩa rộng hơn-mang tính xã hội: Là những hành vi xâm hại mà chủ thể gây hại là học sinh, người bị hại là bất kỳ ai diễn ra bên trong hay bên ngoài khuôn viên nhà trường. Đây là cách tiếp cận được nhiều người quan tâm vì ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nó trong công tác giáo dục.

          Khi hiểu được khái niệm bạo lực học đường là gì, chúng ta dễ dàng nhận diện ra đâu là bạo lực học đường, đâu là bạo lực xã hội.

2.2.Nhận diện bạo lực học đường.

           Bạo lực học đường là hành vi lệch chuẩn nhưng thiên về sử dụng bạo lực.

2.2.1. Nhận diện hành vi bạo lực học đường:

          - Hành vi sử dụng bạo lực cơ bắp là hành vi đánh đập, hành hung để cưỡng bức, trấn lột người bị hại, người gây hại có thể sử dụng hung khí ở các mức độ khác nhau làm tổn thương tinh thần, sức khỏe, tính mạng người bị hại.

          - Hành vi đe dọa, khủng bố là hành vi nhằm gây bất an cho người bị hại, nói xấu, sỉ nhục, bêu riếu làm mất uy tín, danh dự người bị hại. Các hành vi trên có thể do người gây hại thực hiện hay tổ chức thành băng nhóm để thực hiện. Các hành vi này có thể thực hiện trực tiếp, hoặc giám tiếp, có khi còn thông qua các mạng xã hội. Khi đã sử dụng mạng xã hội để thực hiện hành vi bạo lực thì hậu quả là khó lường.

2.2.2. Dấu hiệu bạo lực học đường:

          Bạo lực học đường thường trải qua ba giai đoạn là trước, trong và sau hành vi bạo lực và đều để lại dấu vết hoặc dấu hiệu, báo trước bằng các biểu hiện, chứng cứ nhận biết được gồm có:

+ Dấu hiệu tiền bạo lực gồm có dấu hiệu xa và cận bạo lực. Dấu hiệu xa như học sinh học kém, lêu lỏng, chán học, bất cần đời. Dấu hiệu gần (cận bạo lực) như gây gỗ, hăm dọa, kết băng nhóm, mang theo hung khí trong người…

          + Dấu hiệu thực hiện hành vi bạo lực: Là các dấu vết bạo lực để lại sau hành vi bạo lực nói lên mức độ độc ác, nương tay hay chỉ là dằn mặt, cảnh cáo người bị xâm hại. Ngoài ra, các dấu hiệu còn cho biết kẻ gây hại là nhẫn tâm, vô tình hay cố ý với người bị hại.

+ Dấu hiệu hậu bạo lực: chủ yếu là hành vi, thái độ của kẻ gây hại sau khi bị xử lý đó là thái độ đối với hậu quả xảy ra như ăn năn, hối hận hay hả hê, thỏa mãn của người gây hại. Đối với công tác giáo dục cần xem xét tường tận và lưu ý các dấu hiệu trong một vụ bạo lực học đường nhưng các dấu hiệu tiền bạo lực là vấn đề có ý nghĩa nhất vì nó là chỉ báo để nhà trường tiến hành can thiệp, ngăn chặn các hành vi bạo lực học đường hiệu quả, kịp thời, định hướng cách giải quyết thỏa đáng nhằm ngăn chặn bạo lực xảy ra. Dấu hiệu sau bạo lực cũng cần được xem xét để có thể giáo dục cảm hóa người gây hại, ngăn chặn hành vi tiếp diễn đối với những dấu hiệu ân hận, hối cải sau bạo lực.

          Trên cơ sở nhận diện các hành vi bạo lực học đường, mà nhà trường cần xem xét và tác động vào những hành vi nào sẽ có tác động tích cực, ví dụ như tác động vào các hành vi trước và sau bạo lực sảy ra.

2.3.Những biểu hiện bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục phổ thông.

Qua khảo sát, có 50% các em cho rằng nguyên nhân gây gổ, đánh nhau là do “xích mích trong học tập”; 57,1% em giải thích do “tranh giành người yêu”; 60,2% em cho là do “có những biểu hiện nổi trội, đua đòi, chảnh”. Đặc biệt, có đến 61,2% học sinh cho rằng vì “nóng nảy không biết kiềm chế”; 66,3% cho rằng do “không hài lòng với những lời lẽ trên facebook…

Đồng thời, có 80,6% học sinh cho biết những bạn hay ứng xử bạo lực là người “quá hung hăng, nóng giận, ngang ngược”. Trong số học sinh bạo lực này, lớp 8 chiếm 85,7%; lớp 7 chỉ 71,4%. Điều này nói lên học sinh lớp 8 hung hăng hơn các em lớp 7. Nhưng cũng thật oan cho các em, bởi vì 65,3% trả lời là “không biết kiềm chế” và 26,5% học sinh cho rằng “không biết cách xử lý sao cho đúng”.

2.4. Một số nguyên nhân bạo lực học đường

2.4.1.Nguyên nhân về tâm sinh lý của học sinh:

Sự phát triển cơ thể của học sinh THCS diễn ra mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt thể chất như: Sự phát triển của hệ xương làm vóc dáng trẻ cao gầy, lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng hay làm đổ vỡ. Điều này gây cho các em một tâm lý khó chịu, cố che giấu nó bằng điệu bộ không tự nhiên, cầu kì, tỏ vẻ mạnh bạo, can đảm để người khác không chú ý. Nhưng nếu ai đó vô tình hay cố ý chạm vào “nỗi đau” này thì cũng có thể trở thành nguyên nhân gây hấn ở trẻ.

Ở độ tuổi này, hệ thần kinh chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu kéo dài, vì vậy rất dễ gây tình trạng ức chế hay bị kích thích mạnh. Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh, thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó, trẻ dễ xúc động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình tĩnh, nổi khùng. Vì thế, ở các em, thường có những phản ứng gây gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động.

Bạo lực học đường hiện nay dễ xảy ra ở học sinh lứa tuổi dậy thì, khiến các em phát triển mạnh về thể chất, hưng phấn cao, khả năng kiềm chế kém.Hơn nữa, các em đang muốn chứng tỏ bản thân, khẳng định cái “tôi” cá nhân, nhưng lại không biết thể hiện bằng cách nào; do đó, muốn dùng vũ lực như một cách thể hiện sự vượt trội của mình so với bạn bè, không chịu khuất phục ai, dễ dàng ra tay xử lý bạn khi không vừa ý.

          Những học sinh có biến chứng tâm lý khác thường như bị tăng động, trầm cảm, tâm thần nhẹ, có nhịp tim chậm, tỉ lệ lưu thông máu không đều, dễ bị kích động và thích các yếu tố kích động. Những học sinh có chỉ số IQ thấp, khuyết tật khả năng xử lý thông tin trí lực giảm sút, học lực kém, thất bại trong chuyện học hành, kiềm chế kém, dễ căng thẳng về xúc cảm có thái độ bất cẩn và hiếu thắng, thái độ chống đối mọi người xung quanh, thích hành vi bạo lực. Học sinh có tiền sử sử dụng ma túy đá, rượu, thuốc lá hay các chất kích thích khác.

Học sinh THCS rất quan trọng tình bạn. Và thực sự, quan hệ bạn bè chi phối rất nhiều tới sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này. Do đó, khi trẻ chơi với nhóm bạn có hành vi bạo lực thì trẻ cũng có hành vi bạo lực theo. Có 8,2% học sinh cho rằng ‘thấy bạn mình dùng cách nào thì dùng cách đó’ và đôi khi hành vi bạo lực đó được trẻ coi là hành vi tốt để bảo vệ bạn mình.Khi trả lời câu hỏi “bạn chứng kiến bạn mình bị đánh, bạn sẽ làm gì?có 14,3% chọn phương án “can đảm can ngăn”. Nhưng trong số học sinh này, khi được trò chuyện riêng thì các em bảo rằng “bạn cùng nhóm phải bảo vệ nhau bằng mọi giá, kể cả sẵn sàng đánh nhau”. Nói như thế có nghĩa là đôi khi trẻ không nhận thức được (hoặc có nhận thức) nhưng sai lệch về động cơ của hành động, dẫn tới những hành vi sai lệch. Khi được hỏi “Nếu có bạn muốn gây sự với em, thậm chí muốn đánh em, em sẽ phản ứng như thế nào?”, có 8,6% em chọn phương án “đánh nhau”! Khi được hỏi  “Nếu bạn là nạn nhân của bạo lực học đường, bạn sẽ làm gì?” có 8,2% chọn phương án “dùng hết sức để đánh trả” và cũng 8,2% chọn cách “chịu trận, sau đó sẽ phối hợp với nhiều bạn khác để trả thù”. 
2.4.2.Nguyên nhân từ nhà trường

- Hiện nay, không ít trường học chỉ tập trung giảng dạy kiến thức văn hóa hoặc chạy theo căn bệnh thành tích mà quên việc giáo dục đạo đức, thiếu sự theo dõi sát sao, khuyên răn, thiếu sự ngăn chặn kịp thời những trường hợp ẩu đả giữa các học sinh với nhau. Một nguyên nhân khác là giáo viên không công bằng trong đối xử và đánh giá, cũng như cách xử lý khác nhau giữa các thầy cô.Thầy thì nhẹ nhàng giải thích khuyên bảo, có thầy đánh trước hỏi sau. Cho nên khi được  hỏi “Theo em, những bạn hay đánh nhau với bạn khác là do hung tính hay ứng xử bạo lực” thì có 9,2% học sinh chọn lý do “Bạn đó thường xuyên bị giáo viên đánh hoặc chửi”. Còn khi được hỏi “Theo em, làm sao để không còn hiện tượng đánh nhau?” có 40,8% học sinh chọn phương án “Thầy cô luôn quan tâm, lắng nghe và thấu hiểu học sinh của mình”. Trả lời câu hỏi này, có 20% học sinh lớp 7 chọn phương án “không thể nào”, còn lớp 8 là 38,1%. Điều đó chứng tỏ học sinh lớp 8 có xu hướng bạo lực cao hơn lớp 7.

          - Chương trình giáo dục của các cơ sở giáo dục rất nặng về kiến thức, nhiều môn, nhiều nội dung mang tính hàn lâm mà nhẹ về các hoạt động trải nghiệm. Học sinh hầu như không có nhiều thời gian để tham gia các hoạt động xã hội, các câu lạc bộ, đội nhóm, nhằm rèn luyện kỹ năng, trau dồi nhân cách, mặt khác nhà trường luôn phải chạy theo thành tích, chạy đua với dư luận xã hội, học sinh phải học thêm, học nhiều thứ, tạo nên áp lực học tập rất căng thẳng và mệt mỏi trong học tập.

          -Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho học sinh phần nào chưa được quan tâm, chưa có những bộ phận làm “Tư vấn tâm lý” để giúp học sinh sử lý các tình huống như bạn bè ruồng bỏ, hắt hủi hay bắt nạp hoặc học sinh giao du với bạn bè phạm pháp; không muốn học và thất bại trong việc học hoặc do hoàn cảnh dẫn đến tình trạng tự kỷ hoặc nổi loạn trong học tập.

          -Giáo viên ít quan tâm đến đời sống tâm lý, tình cảm của học sinh; biện pháp kỷ luật của thầy cô và nhà trường không nhất quán, quá dễ dãi hay quá khắc nghiệt; thiếu những hoạt động xã hội lành mạnh; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường và xã hội.

2.4.3.Nguyên nhân từ gia đình

- Trong thời buổi kinh tế thị trường, các bậc phụ huynh đều lao vào công việc và cả những mối quan hệ khác bên ngoài mà lơ là việc chăm sóc, giáo dục và định hướng cho con cái. Đã có 31,6% học sinh cho rằng “ba mẹ lo kiếm tiền ít quan tâm đến con cái”. 39.8% trả lời “ba mẹ không dạy cách xử lý khi có mâu thuẫn hay xung đột trong học tập và các mối quan hệ”. Đáng báo động là những lúc có chuyện buồn, xung đột với bạn, bất mãn với thầy cô, bạn bè… các em cần cha mẹ một lời khuyên, một cách xử lý thì cha mẹ lại bận: “Con đã lớn, tự quyết định đi”. Có 23,5% chọn nguyên nhân “ba mẹ hay mắng chửi, đánh đập mà không giải thích khuyên bảo” và 5,1% chọn “ba mẹ hay gây gổ, đánh nhau”. Điều này phản ánh việc xuất hiện tình trạng bạo lực ngay trong nhà mình. Việc cha mẹ thường xuyên quát tháo, mắng chửi, đánh đập con, chồng đánh vợ, cha đánh con, ba mẹ bất hòa, cãi nhau… vô hình chung đã gieo rắc vào đầu trẻ sự tổn thương tâm hồn cũng như mầm mống bạo lực.

          - Như chúng ta đã biết, gia đình là nền tảng đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ từ tuổi ấu thơ. Nếu cha mẹ, anh, chị, em… trong gia đình cư xử với nhau bằng bạo lực, sử dụng những từ ngữ, lời lẽ không hay với nhau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, tình cảm của đứa trẻ và từ đó, dần hình thành trong trẻ những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và hành động giống như gia đình chúng.

          - Do mặt trái của kinh tế thị trường làm cho chức năng kinh tế của gia đình đã lấn áp chức năng giáo dục con cái của cha mẹ và những người thân trong gia đình, làm xao nhãng việc chia sẻ tình cảm, giáo dục phòng tránh những nguy cơ tiêu cực của môi trường sống có thể ảnh hưởng đến trẻ.

          - Một nguyên nhân nữa cũng cần nhắc đến đó là sự thiếu quan tâm từ phía gia đình do cha mẹ chỉ chăm chú vào các công việc làm ăn.Hàng ngày thiếu sự kiểm soát và chăm sóc con cái hoặc do gia đình ít con nên sự chiều chuộng con cái quá mức, chỉ biết cung cấp, đáp ứng về tiền bạc theo yêu cầu của con cái mà thiếu sự kiểm soát, quan tâm đến suy nghĩ, hành động của con em cũng chính là mối quan tâm mà chúng ta cần suy nghĩ.

          - Cha mẹ nghiện ngập hay phạm pháp; bạo lực trong gia đình; cha mẹ thiếu quan tâm hay không tạo được quan hệ tình cảm với con cái; cha mẹ kém khả năng kiểm soát con cái; cha mẹ không có tình thương yêu và nối kết trong gia đình; chức năng giáo dục trong gia đình kém; biện pháp giáo dục và kỷ luật không nhất quán, quá dễ dãi hay quá khắc nghiệt; cha mẹ ly thân hoặc ly hôn; cha mẹ có tiền án, tiền sự hoặc đang ngồi tù đều dẫn đến tình trạng bạo lực nói chung và bạo lực học đường nói riêng.

2.4.4. Nguyên nhân từ xã hội

- Những năm gần đây, ngoài xã hội, cảnh bạo lực diễn ra khắp nơi, khắp các lĩnh vực: bạo lực sân cỏ, cầu thủ đánh nhau, huấn luyện viên chửi trọng tài, cổ động viên choảng nhau; bạo lực kinh doanh đâm chém để tranh giành thị phần. Ngoài đường phố xe taxi húc vào xe cảnh sát, đánh trả lại cảnh sát, hiện tượng trấn lột, cướp của giết người…hàng ngày, hàng giờ diễn ra khắp mọi nơi. Rồi bạo lực gia đình, con cái hù dọa cha mẹ, mẹ đánh đập con gây thương tích, con hành hạ cha đến ngất xỉu… và còn rất nhiều hình thức bạo lực khác, không riêng gì bạo lực học đường.

Ví dụ từ môi trường văn hóa bạo lực: phim, ảnh, sách, báo, đồ chơi mang tính bạo lực (kiếm, súng...). Những điều này, các em đã chứng kiến, thậm chí một số em đã từng tham gia, khiến nhiều em bị tiêm nhiễm và đã biến thành những học sinh có xu hướng bạo lực.

  - Có thể thấy, hiện nay, một góc xã hội đã thờ ơ, dửng dưng, buông xuôi, chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa có được những giải pháp thiết thực, đồng bộ, triệt để. Cụ thể như: phim chiếu trên tivi nhan nhản cảnh đánh nhau: nào là dao, nào là súng đạn các loại, nào là gậy gộc được sử dung nhu là một vũ khí để đánh nhau mà ít thấy nhà đài nào làm cái việc “dán nhãn” hạn chế trẻ em và trẻ vị thành niên. Các đại lý internet vẫn hoạt động mà ít có sự kiểm tra thường xuyên, nghiêm túc của chính quyền về các trò chơi, về thời gian chơi...Việc làm này đã làm ảnh hưởng đến thái độ của các em đối với bạo lực. Vì vậy có 12,2% học sinh cho rằng bạo lực học đường là sai trái nhưng không dám lên tiếng vì sợ liên lụy, sợ mình sẽ là nạn nhân tiếp theo. Có 22,4% học sinh cho rằng “chỉ can thiệp khi bạn bị đánh là bạn của mình” (trong đó, lớp 7 có 5,1% em chọn, lớp 8 là 31,7% em. Có 51% học sinh chọn “âm thầm báo với người lớn”, trong đó học sinh lớp 7 chiếm 65,7% còn lớp 8 là 42,9%. Vậy học sinh lớp 7 vẫn hiền lành hơn, khi có bạo lực xảy ra các em nghĩ ngay đến việc nhờ người lớn giải quyết, các anh chị lớp 8 lúc này có xu hướng bạo lực hơn sẽ “can đảm can ngăn” hay sẽ “can thiệp khi bạn đó là bạn của mình” không chỉ vì lý do chính nghĩa mà có thể vì nhận thức về “tình bạn” có phần lệch lạc theo hướng bạo lực.

- Bạo lực gia đình, bạo lực ngoài cộng đồng xã hội cũng là “đường link” dẫn tới các hành vi bạo lực của trẻ em. Hiện nay, bạo lực ngoài cộng đồng đang là những vấn nạn lớn trong xã hội. Mọi người khi bước chân ra đường là nơm nớp lo sợ hoặc là tai nạm giao thông hoặc là gặp các vụ trấn lột hay đánh đấm lẫn nhau, con người cảm thấy bất an trong việc đi lại. Đau đớn thay, chúng ta phải nghe câu cửa miệng của mọi người: “Ra ngõ gặp anh KHÙNG”.

- Công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, trẻ em được tiếp cận với các trò chơi điện tử và mạng Internet từ khi còn rất nhỏ; từ đó, dẫn đến các hiện tượng nghiện games online, nghiện internet cũng như các trang mạng xã hội, ảnh hưởng từ các trò chơi mang tính bạo lực cao, các em bất chấp pháp luật, chuẩn mực đạo đức để được thỏa mãn “nhu cầu bạo lực” thông qua các trò chơi online, rời xa cuộc sống thực tìm đến thế giới ảo của internet.

          - Các ấn phẩm báo chí, sách, truyện tranh, video clip, phim ảnh mang tính bạo lực cũng góp phần hình thành “nhu cầu bạo lực” của học sinh. Đặc biệt, các em cũng bị ảnh hưởng từ chính những cảnh bạo hành trong gia đình và ngoài xã hội như bạo lực trên các sân cỏ, đâm chém để tranh giành quyền lợi, đánh người thi hành công vụ.

- Các lực lượng quản lý xã hội phần nào chưa làm hết chức trách của mình. Hàng tấn ma túy và chất gây nghiện gần đây thâm nhập vào Việt Nam một cách ồ ạt. Nếu các thứ hàng đó được đưa ra thị trường thì hàng triệu người rơi vào cảnh nghiện ngập trong đó có học sinh, sinh viên và việc gì sẽ sảy ra khi họ sa vào nghiệm ngập. Nói cách khác việc quản lý các chất gây nghiện, các chất kích thích như các chất gây nghiện, ma tuý tổng hợp chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan cảnh sát, các tổ chức, các lực lượng xã hội dẫn đến hành vi bạo lực học đường ngày càng có chiều hướng gia tăng ở giới trẻ. Bởi vì, một khi con người đã sử dụng những chất này sẽ không thể tự kiểm soát được hành vi và lời nói dẫn đến dễ gây hấn, cãi nhau, đánh lộn, thậm trí gây án mạng.

3. Dư luận xã hội về bạo lực học đường và vấn đề định hướng truyền thông.

3.1.Dự luận xã hội về bạo lực học đường.

Như trên đã phân tích, bạo lực học đường luôn là vấn đề thời sự được cả xã hội quan tâm. Ở đâu có bạo lực là ngay lập tức ở đó thông tin được lan truyền đi khắp nơi, đặc biêt trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin mạng như hiện nay.Từ những sự việc đó nhiều câu hỏi trong xã hội được đặt ra, mà dư luận xã hội đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà giáo dục phải trả lời.Ví dụ tại sao lại xảy ra đánh nhau trong các cơ sở giáo dục?Vai trò của nhà trường, của thày/cô giáo ở đâu?Vai trò của cha mẹ học sinh như thế nào?Trách nhiệm của xã hội như thế nào?

  • Vớì học sinh, xã hội có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, trẻ em đánh nhau là lẽ thường tình. Ngày xưa các cụ đã nói:”Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, đã là học trò là nghịch ngợm là đánh nhau, vì học trò là lứa tuổi rất hiếu động và luôn tìm mọi cách để thể hiện bản lĩnh của mình là người lớn, mà chỉ có đánh nhau mới thể hiện được“cái tôi” của mình. Mặt khác, những nhà Tâm lý học lại cho là sự phát triển của sinh lý học sinh, dẫn đến có lúc học sinh không làm chủ được trang thái tâm lý của mình. Vì thế đánh nhau ở lứa tổi học trò không có gì cần bàn cãi. Nhưng hiện nay, hiện tượng này càng ngày càng gia tăng, liệu có cách nào hạn chế được không. Dư luận xã hội mong muốn được các nhà quản lý, các nhà giáo dục giải thích vấn đề này.
  • Với nhà trường, dư luận xã hội muốn biết được trách nhiệm của nhà trường, thày cô giáo đến đâu, hiệu quả của chương trình giáo dục đạo đức công dân của ngành giáo dục đến đâu, mà hiện tượng bạo lực trong các cơ sở giáo dục vẫn xảy ra liên tiếp? Về vấn đề này, dư luận xã hội cho rằng trách nhiệm chính là do nhà trường, thày cô giáo. Thày cô giáo chưa làm tốt vai trò trách nhiệm của mình, thày/cô chưa làm được tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Môi trường học tập trong nhà trường còn thiếu sự thân thiện và đảm bảo an toàn. Ngược lại, cũng có dự luận cho rằng đó là hệ quả của một nền giáo dục hiện nay. Ở đó người ta coi trọng dạy chữ hơn dạy người, dạy làm sao cho học trò thi đỗ được vào trường chuyên, lớp chọn, vào các trường đại học đẳng cấp để trở ông cán bộ nọ, bà cán bộ kia. Một số khác lại cho rằng, do cơ chế thị trường phát triển quá mạnh, người ta chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ việc giáo dục nhân cách con người…
  • Với gia đình, phụ huynh học sinh, dư luận xã hội cho rằng gia đình, cha mẹ học sinh thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục con em mình, khoán trắng cho thày cô và nhà trường. Cha mẹ lo làm ăn, lo cho cuộc sống hiện tại hơn lo việc học hành của con cái, thâm chí nhiều lúc cả cha lẫn mẹ lao vào kiếm tiền mà quên đi trách nhiệm lảm cha làm mẹ. Vì mặt trái của kinh tế thị trường, nhiều gia đình còn sảy ra tình trạngcãi cọ, đánh đập nhau trước mặt con cái tạo cho con cái quen cảnh đánh nhau hoặc giải quyết mọi việc bằng bạo lực.
  • Với xã hội, dư luận xã hội cho rằng, xã hội có ảnh hưởng rất nhiều đến các hành vi bạo lực học đường, vì bạo lực học đường nhiều khi bắt nguồn từ bạo lực đường phố, bạo lực trong cộng đồng, bạo lực trong gia đình. Giá trị xã hội bị thay đổi, mọi người chỉ coi trọng việc kiếm tiền mà sao nhãng việc giáo dục hướng thiện, giáo dục lòng nhân ái. Hệ thống luật pháp chưa đầy đủ dẫn đến trộm cướp đánh chém lẫn nhau. Tình trạng buôn bán ma túy ngày càng gia tăng. Hệ thống thông tin đại chúng do câu khách, kiếm tiền nên hay đưa những thông tin giật gân mà ít đưa những thông tin về người tốt việc làm tốt. Hoặc trong các các trang mạng xã hội không quản lý được nên đày rãy những hình ảnh bao lực trong đó có bạo lực học đường.

3.2.Định hướng dư luận xã hội qua truyền thông về tình trạng bạo lực học đường.

Trước hết cần nhận thức đúng về tình trạng bạo lực học đường.Bạo lực học đường ở thời nào cũng có, quốc gia nào cũng có – Cũng có thể nói, bạo lực học đường là hiện tượng của xã hội.Xã hội tồn tại, nhà trường còn tồn tồn tại thì bạo lực học đường vẫn cứ còn tồn tại.Chỉ có điều ở các xã hội khác nhau thì hiện tượng xã hội sẽ khác nhau – có nghĩa là bạo lực học đường cũng khác nhau.Vì vậy những nhà quản lý xã hội, những nhà giáo dục cần có thái độ bình tĩnh, nhận diện cho đúng và có biện pháp xử kịp thời.

Trước hết những nhà quản lý xã hội cần định hướng cho dư luận xã hội về tình trạng bạo lực học đường hiện nay cho chính xác, không coi nó là chuyện bình thường nhưng cũng không coi nó vấn nạn, và càng không được đưa tin, thổi phồng các hiện tượng bạo lực đã xảy ra. Từ đó dịnh hướng dư luận vào các biện pháp khác phục.

3.2.1. Định hướng dư luận xã hội qua truyền thông về công tác giáo dục cho học sinh.

- Như chúng ta đều biết, học sinh vừa là chủ thể, vừa là khách thể của bạo lực học đường, vì vậy học sinh phải nhận thức được rằng đây là những hành động vô cùng nguy hại. Nó mang lại những hậu quả vô cùng đau xót.Về mặt thể xác, nó làm tổn hại cho sức khỏe của con người, tàn tật, thậm chí còn gây ra chết người.Về mặt tâm lý, nó để lại những bất an, hoảng loạn hoặc dẫn đến rồ dại không làm chủ được bản thân.

- Vì vậy, cần giáo dục học sinh nâng cao nhận thức, ý thức về hành động và những hậu quả về hành động mà mình làm. Tránh tham gia hay đua đòi theo những học sinh có cá tính mạnh, có những hành vi bạo lực. Tăng cường giao lưu, vui chơi, giải trí cùng nhóm bạn đồng hành giúp đỡ nhau trong học tập và khi cần thiết sẽ có hỗ trợ từ các bạn. Tránh a dua, đua đòi, chơi theo phong trào phân biệt đối xử, nên tổ chức nhiều sân chơi bổ ích để tạo sự gần gũi, tránh xa các hành vi bạo lực.

3.2.2. Định hướng dư luận xã hội qua truyền thông về vai trò, trách nhiệm của nhà trường, các thày cô giáo.

- Nhà trường cần quan tâm tới học sinh cả trong và ngoài môi trường nhà trường. Lắng nghe học sinh của mình xem những điều gì đang diễn ra ở các em.Không cho phép các thái độ định kiến, thù địch và phân biệt đối xử diễn ra giữa các học sinh và các nhóm học sinh trong lớp học. Thầy/cô giáo phải thiết lập quy tắc này ngay từ khi bắt đầu lớp/khóa học.

- Nhà trường cần nhận biết những dấu hiệu bạo lực ở học sinh. Các dấu hiệu cho thấy hành vi bạo lực sắp xảy ra bao gồm: học sinh giảm hứng thú học tập; thích chơi hoặc xem các trò games bạo lực; tâm trạng chán nản; nói về nỗi tuyệt vọng/thất vọng và cô lập với các học sinh khác; thiếu kỹ năng kiểm soát sự giận dữ; có hành vi bạo lực với động vật; nói về cái chết hay mang vũ khí vào trường.Khuyến khích học sinh thông báo những biểu hiện về bạo lực học đường cho giáo viên.  Xem xet và xử lý đúng người, đúng tội khi bạo lực xảy ra, tránh tình trạng bao che hoặc có những thái độ quá tả hoặc quá hữu trong việc sử lý các vụ việc đem lại sự công bằng và lòng tin cho học sinh. Theo dõi những diễn biến tâm lý của các em làm hại hay bị hại để kịp thời thời có phương pháp xử lý thích ứng giúp các em lấy lại tâm trạng và niềm tin vào sự công bàng trong nhà trường hay trog xã hội.

- Nhà trường cần dạy cho học sinh kỹ năng kiểm soát giận dữ và giải quyết xung đột,kỹ năng kiểm soát bản thân trong cơn nóng giận, giảm bớt nóng giận khuyến khích học sinh thông báo những biểu hiện về bạo lực học đường cho giáo viên.Nhà trường nên quan tâm tới học sinh, không cho phép chia bè, kéo cánh chế nhạo hành vi của một cá nhân trong lớp học dẫn tới các em bị chán nản vì dồn vào đường cùng mà dẫn tới hành vi xấu. Nhà trường cũng nên có những biện pháp mạnh với những học sinh chuyên gây gổ đánh nhau để làm gương cho những học sinh khác. Giữ mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh. Toàn xã hội cần phải quan tâm củng cố nâng cao chất lượng môi trường xã hội, văn minh tiến bộ. Quản lý, ngăn chặn và có chế tài hiệu quả những hoạt động có tác hại đến môi trường văn hóa xã hội, nghiêm cấm các trò chơi điện tử, phim ảnh bạo lực. Khuyến khích học sinh thông báo những biểu hiện về bạo lực học đường cho giáo viên

- Cần nhất hiện nay là phải xây dựng được văn hoá học đường, đólà xây dựng các chuẩn mực, niềm tin, các giá trị nhân văn.Thực hiên tốt phong trào thi đua xây dựng:“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”hay “ngôi trường hạnh phúc”với các nội dung thiết thực như:Xây dựng trường xanh, sạch, đẹp và an toàn, thân thiện.Dạy và học có hiệu quả phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, mỗi nhà trường, giúp các em tự tin trong học tập.Giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng kiểm soát bản thân cho học sinh,. Tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh.Tăng cường các hoạt động ngoại khoá như cho các em tham gia trải nghiệm, tìm hiểu, chăm sóc và phát huy các di tích lịch sử cách mạng ở địa phương.

- Mỗi trường nên thành lập tổ tư vấn tâm lý cho học sinh, để từ đó giúp các em điều chỉnh thái độ, hành vi bản thân trong cơn nóng giận, bực tức,định kỳ khám sức khoẻ cho các em, làm cho các em thấy được sự quan tâm của nhà trường, của xã hội đối với mình. Đồng thời nhà trường phải có biện pháp cương quyết đối với những học sinh chuyên chia bè, kéo cánh, chế nhạo nhau, gây gỗ đánh nhau để làm gương cho những học sinh khác. Nếu xảy ra các trường hợp bạo lực học đường  thì nhà trường phối hợp với các tổ chức như giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, thầy cô giám thị, đoàn thanh niên, phụ huynh học sinh cùng phối hợp kịp thời, xử phạt nghiêm hành vi vi phạm, để ngăn chặn ngay tình trạng bạo lực học đường, giúp học sinh nhận biết được sai trái của mình, phối hợp cùng gia đình để giáo dục học sinh thành những con ngoan trò giỏi.

3.2.3. Định hướng dư luận xã hội truyền thông về vai trò, trách nhiệm của gia đình

- Gia đình phải xác định rõ vai trò, vị trí và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tiếp tục thúc đẩy phong trào ông, bà, cha, mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền; xây dựng gia đình văn hóa. Loại bỏ các hành vi bạo lực ra khỏi đời sống gia đình. Nâng cao kiến thức bảo vệ chăm sóc trẻ em và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em tại gia đình.

- Mỗi gia đình cần xây dựng được hệ giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình. Gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nề nếp đạo đức và lối sống cho con cái. Việc coi trọng giáo dục lễ phép cho con cái đã dần hình thành nên nhân cách tốt ở các em. Sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ, ân cần chỉ bảo của cha mẹ sẽ tác động rất nhiều đến sự phát triển của các em. Khi gia đình coi trọng việc dạy dỗ đạo đức cho con cái, hãy bắt đầu bằng những bài học rất đơn sơ như kính già, yêu trẻ, chào hỏi, thưa gửi…sẽ giúp trẻ ý thức được mỗi lời nói cũng như từng hành vi, cử chỉ của mình.

- Cha mẹ cần quan tâm tới những thay đổi tâm sinh lý của con trẻ, quan tâm đến các mối quan hệ bạn bè của con, nhưng cha mẹ không nên quản lí con quá khắt khe làm con có cảm giác bị trói buộc và khó khăn khi chia sẻ cùng cha mẹ. Cha mẹ hãy là những người bạn đồng hành đối với con hoặc tìm cho con những người bạn đáng tin tưởng mà con có thể chia sẻ trong cuộc sống.

- Gia đình cần quan tâm sâu sát đến quá trình học tập và rèn luyện của con em mình. Cần nắm bắt kịp thời những nhu cầu, nguyện vọng của các em và nên nhìn nhận sự khác biệt giữa các thế hệ trong lối sống, cách suy nghĩ của các em so với thế hệ của mình để dễ đồng cảm với các em trong quá trình giáo dục. Chú ý đến đặc điểm những nhóm bạn của con cái, tránh khuynh hướng phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường, cần trở thành chỗ dựa tinh thần, đưa ra những lời khuyên giúp các em tự giải quyết khi có mâu thuẫn. Các bậc cha mẹ hãy dành thời gian nhiều hơn để tập trung chăm lo giáo dục cho con mình. Điều này không những sẽ giúp cho con cái của mình sớm trở thành con ngoan trò giỏi, mà cũng góp phần đỡ bớt gánh nặng cho nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh.

- Cha mẹ cần làm gương cho các em trong mọi hoàn cảnh nhằm giúp các em có những thay đổi từ nhận thức, hành vi và thói quen để gia đình thực sự trở thành môi trường thuận tiện cho sự phát triển nhân cách của con cái. Bố mẹ không nên có hành vi bạo lực trước mặt con cái, nâng cao vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nâng cao kiến thức bảo vệ chăm sóc trẻ em và giáo dục kỹ năng sống cho các em tại gia đình. Vì đây chính là những yếu tố đầu tiên làm cho con trẻ khi lớn lên bớt ngang bướng, lì lợm, hay bức xúc, dễ tức giận và hạn chế việc đánh nhau với bạn.

3.2.4. Định hướng dư luận xã hội truyền thông về xây dựng một xã hội văn minh, an toàn và lành mạnh.

Có thể nói, môi trường xã hội vô cùng quan trọng trong việc giáo dục hình thành nhân cách của trẻ em. Xã hội phát triển theo xu hướng nào thì nhân cách của con người sẽ phát triển theo xu hướng đó. Như chúng ta đã biết, nước ta đã và đang phấn đấu trở thành nước: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nếu đạt được điều này, thì con người sống sẽ thân thiện hơn, giàu lòng nhân ái hơn và như vậy sẽ giảm được các hiện tượng bạo lực trong xã hội nói chung và bạo lực học đường nói riêng.

Có lẽ chúng ta phải làm nhiều hơn nữa để có xã hội công bằng, xã hội dân chủ và văn minh. Cụ thể là:

- Trước hết, phải xây dựng được cộng đồng an toàn thân thiện, “mình vì mọi người và mọi người vì mình”. Một cộng đồng xã hội mà mọi người biết thương yêu nhau “Người với người sống để yêu nhau”, biết chăm lo tới cuộc sống của nhau trên tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Một cộng đồng an toàn, ra đường không lo bị bạo lực “Ra ngõ sợ anh khùng” sợ chấn lột, hay tai nạn bất thường xảy ra. Đây có thể là điều kiện tiên quyết của môi trường xã hội để giảm thiểu và ngăn chặn bạo lực xã hội nói chung và bạo lực học đường nói riêng. Ngoài ra cũng cần phải định hướng dư luận xã hội qua truyền thông thêm một số điều cần thiết và cấp bách. Đó là:

- Phát huy vai trò và chức năng của tổ chức Đảng, cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với bạo lực học đường nói riêng và các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Thực hiện tốt cơ chế phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao trách nhiệm, trong việc phòng, chống bạo lực học đường, vi phạm pháp luật trong trường học.

- Đẩy mạnh cuộc vận động “gia đình văn hóa”, “gia đình, dòng họ, cộng đồng khuyến học khuyến tài” giáo dục các bậc phụ huynh, người lớn trong khu dân cưtự ý thức trong việc làm gương trong đời sống xã hội, đầu tư thời gian đề quan tâm đến con cái nhiều hơn. Cần quan tâm tới các mối quan hệ xã hội, nhất là mối quan hệ cùng trang lứa của con cái, theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ về nền nếp học tập, sinh hoạt, thái độ, hành vi, hành động của con mình nhưng không gây cho con cảm giác là gia đình quản lý quá khắt khe, bị trói buộc và không thể chia sẻ cùng cha mẹ. Cha mẹ hãy là người bạn đồng hành đối với con hoặc tìm cho các con những người bạn đáng tin cậy mà con có thể chia sẻ trong học tập, trong cuộc sống. Tuy vậy, mỗi gia đình luôn ý thức việc nuôi dạy con em mình là một trong những nhiệm vụ hàng đầu không thể ỷ lại cho xã hội và nhà trường. Vì vậy, phải tự trang bị tìm hiểu để có được kỹ năng sống nhất định để truyền thụ cho con em mình trong mỗi gia đình.

4.Kết luận.

Vấn đề bạo lực học đường luôn là vấn đề thời sự, cả xã hội quan tâm.Ngay cả ở các nước phát triển bạo lực học đường cũng là những vấn đề mà các Nhà giáo dục và Nhà xã hội học dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, bạo lực học đường ngày càng gia tăng cả về số lượng với mức độnghiêm trọng ở các cơ sỏ giáo dục phổ thông và với tất cả các đối tượng: Giáo viên, học sinh các cấp, phụ huynh học sinh…

          Để giải quyết hiệu quả và giảm thiểu tình trạng bạo lực học đường, chúng ta phải tìm hiểu rõ bản chất, nguyên nhân gốc rễ của vấn đề và từ đó định hướng cho dư luận xã hội những giải pháp thích hợp và sự chung sức của tất cả những lực lượng có trách nhiệm, từ tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, các Bộ, Ban, Ngành, đến sự phối hợp của các tổ chức xã hội, nhà trường và gia đình. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu kinh nghiệm của các quốc gia đã thành công trong việc xây dựng chương trình phòng tránh bạo lực học đường cũng giúp chúng ta tìm được giải pháp thật sự hiệu quả và kịp thời.

---------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1].Đại học Quốc gia Hà Nội (2000),  Phương pháp nghiên cứu Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2].Thế Trường (Biên dịch – 2008), Tâm lý và sinh lý, NXB Lao động xã hội.

[3].Phạm Minh Hạc, Tâm lý học và vấn đề bạo lực học đường, Kỷ yếu Hội thảo: Phòng chống bạo lực học đường- thực trạng và giải pháp, Hội KHTL-GDVN. 

[4].Lưu Song Hà (2009), Một số giải pháp tâm lý nhằm hạn chế và khắc phục hành vi lệch chuẩn của học sinh trung học phổ thông, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế “Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam”.

[5].Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo dục kỹ năng phòng, chống bạo lực học đường cho hoc sinh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[6].Gia đình - trường học đầu tiên của lòng nhân ái (1998), NXB Giáo dục Hà Nội.

[7].Thủ Tướng chính phủ, Nghị định 80/2017/NĐ-CP môi trường giáo dục an toàn lành mạnh chống bạo lực học đường.

[8].Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch và Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Kế hoạch triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” giai đoạn 2008-2013.

 

                                            PGS.TS. TÔ BÁ TRƯỢNG

                                             Viện NC Hợp tác Phát triển giáo dục

 

 

Ý kiến bạn đọc
       PGS.TS Nguyễn Gia Cầu                                                                     Viện NCHTPT Giáo dục Tóm tắt: Bài viết phân tích một số tiền đề lí luận về tư tưởng “thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt” trong bối cảnh đổi mới quan lí giáo dục theo Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 4/11/2023 của BCHTW Đảng. Đồng thời dưới góc độ quản lí giáo dục, tác giả cũng nêu một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Các giải pháp đó có cơ sở lí luận và thực tiễn, có tính khả thi cao.  
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).