1. Giáo dục & Đào tạo
  2. >
  3. Giáo dục học

Quá trình phát triển tư duy lý luận về giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng

12:11 | 01/02/2023
aA

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết những ưu điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo, đề xuất các giải pháp định hướng tiếp tục đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo trong những giai đoạn tiếp theo. Các luận điểm về giáo dục và đào tạo trong Nghị quyết Đại hội XIII là sự tiếp tục phát triển về tư duy lý luận giáo dục của Đảng trong bối cảnh mới. Một trong những luận điểm quan trọng đó là đổi mới giáo dục và đào tạo đồng bộ với sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn với thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thực hiện các biện pháp số hóa trong giáo dục tương thích với xây dựng mô hình xã hội số, nền kinh tế số. Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình phát triển tư duy lý luận về giáo dục của Đảng là cơ sở để vận dung sáng tạo các quan điểm về phát triển giáo dục và đào tạo trong Nghị quyết Đại hội XIII vào thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.

1. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về giáo dục qua các giai đoạn lịch sử

Quá trình hình thành, phát triển tư duy lý luận của Đảng về giáo dục và đào tạo gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi bôn ba tìm đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau này là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với nhãn quan chính trị thiên tài đã lựa chọn giáo dục như một công cụ để đấu tranh chống lại chế độ thực dân, xâm lược của Pháp, thông qua giáo dục để để tập hợp lực lượng, nâng cao dân trí và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho một cuộc cách mạng xã hội. Người quan niệm rằng: “Cách mệnh trước hết là giáo dục giác ngộ nhân dân, phải đào tạo đội ngũ cán bộ giác ngộ để thông qua đội ngũ đó mà giác ngộ quần chúng”. Quá trình đấu tranh phê phán nền giáo dục của thực dân Pháp đã hàm chứa trong đó tư tưởng của Hồ Chí Minh về một nền giáo dục mới của người Việt Nam. Đó là nền giáo dục của người bản xứ, nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.

Trong ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh, sinh viên các nhà trường trong toàn quốc tự hào công bố: “từ giờ phút này trở đi các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam … một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”[8, tr.32]. Đây là lời tuyên ngôn cho sự ra đời của một nền giáo dục mới. Tư tưởng về xây dựng nền giáo dục theo hướng “phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có” của người học lần đầu tiên được xuất hiện ở Việt Nam. Đây đồng thời là một tư tưởng chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng cho sự phát triển của nền giáo dục cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương xây dựng nền giáo dục kháng chiến, kiến quốc. Từ đó đến nay đất nước ta đã trải qua 3 cuộc cải cách giáo dục chính thức. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào năm 1950 và cuộc cải cách lần thứ 2 vào năm 1956 đã tạo cơ sở cho miền Bắc tiến lên xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mang nét riêng của dân tộc Việt Nam. Bước vào những năm 1960, nhiều mô hình nhà trường mới được xuất hiện trở thành những điểm sáng trong nền giáo dục của nước nhà.

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, ngày 11-1-1979, Bộ Chính trị khóa IV đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW “Về cải cách giáo dục” Nghị quyết nêu nguyên lý cải cách giáo dục là việc học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Nội dung chủ yếu của công tác cải cách giáo dục gồm ba mặt: cải cách cơ cấu của hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách phương pháp giáo dục. Thực hiện xây dựng mạng lưới trường, lớp không thoát ly sản xuất và công tác.

Tháng 12 năm 1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, sâu sắc và triệt để, trong đó bao gồm cả đổi mới giáo dục và đào tạo. Đại hội xác định, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt, nhưng trước hết là đổi mới tư duy. Nghị quyết Đại hội VI đã đánh dấu một bước ngoặt về đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng, đặt cơ sở cho sự đổi mới, phát triển tư duy lý luận về giáo dục. Với đường lối đổi mới đó, cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 được hòa nhập vào công cuộc đổi mới đất nước, trở thành quá trình đổi mới giáo dục và được kéo dài đến tận ngày nay. Quan điểm đổi mới đất nước là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm, tư tưởng đổi mới giáo dục. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới đó, bối cảnh thế giới và trong nước liên tiếp có những biến động lớn. Năm 1991, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu sụp đổ, hệ thống chủ nghĩa xã hội rơi vào thoái trào. Trước tình hình gay cấn đó, Đảng, Chính phủ và ngành giáo dục đã cố gắng tìm mọi giải pháp để chấn hưng và giữ vững định hướng phát triển giáo dục.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã tổng kết quá trình đổi mới giáo dục và đưa ra quan điểm xác định: Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải được xem là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu giáo dục và đào tạo là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”. Đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Để cụ thể hóa các quan điểm trong Nghị quyết Đại hội VII, ngày 14-1-1993, Ban chấp hành Trung ương đã họp ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết đã xác định bốn quan điểm lớn đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam, đó là:

- Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp.

- Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với ưu thế tiến bộ của thời đại.

- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã nêu rõ tư tưởng: đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.

Đây là một bước phát triển mới về tư duy giáo dục. Từ đây, đầu tư cho giáo dục được xác định là đầu tư để phát triển con người, phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Nghị quyết đã đề ra chủ trương: Tăng dần tỷ trọng chi trong ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Để thực hiện nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đã họp ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24/12/1996 Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000. Hội nghị đã phân tích tình hình thời cuộc trong nước và thế giới, đưa ra cảnh báo các nguy cơ và định hướng cho sự phát triển của nền giáo dục trong thời kỳ mới như sau: "Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục - đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học"[1,tr.29]. Đây là quan điểm định hướng chiến lược cho sự phát triển của nền giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lâm vào thoái trào.

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến mới. Ngày 1 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Theo đó, giáo dục được xếp vào nhóm thứ 5 trong 12 nhóm dịch vụ. Đây là một nội dung trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Với việc công nhận giáo dục là một dịch vụ đã làm nảy sinh nhiều khuynh hướng quan điểm khác nhau về giáo dục và đào tạo. Dư luận đặt ra câu hỏi rằng, vấn đề này có mâu thuẫn gì với quan điểm “Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo” đã được ghi trong Nghị quyết TƯ2 (khoá VIII) hay không? Để trả lời cho các câu hỏi đó, ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị đã ra kết luận số 242-TB/TƯ về tiếp tục thực hiện nghị quyết TƯ2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục, đào tạo đến năm 2020. Trong đó nhấn mạnh: “Trước tình hình mới, Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết TƯ2 (khóa VIII), phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Đây lại là một bước phát triển mới về tư duy lý luận giáo dục của Đảng trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế. Theo tinh thần đó, những quan điểm của Nghị quyết TƯ2 (khóa VIII) vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho việc phát triển của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, việc thực hiện các quan điểm đó phải được đặt trong tình hình mới, vừa chấp nhận tham gia thương mại giáo dục vừa chống khuynh hướng "thương mại hoá" nền giáo dục. Tham gia các hoạt động thương mại giáo dục và “thương mại hoá” nền giáo dục là hai phạm trù không đồng nhất với nhau. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và trong xu thế thời đại hiện nay, việc bắt tay với các đối tác tham gia các hoạt động thương mại giáo dục là một sách lược sáng suốt và mềm dẻo. Vấn đề quyết định là trong khi đi cùng với các đối tác, thực hiện các hoạt động thương mại giáo dục chúng ta phải hướng tới thcj hiện chiến lược xây dựng một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa “tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc”.

Như vậy, quá trình đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng về giáo dục luôn vận động, phát triển gắn với sự vận động, phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam và tình hình thế giới. Trong thực tiễn, quá trình đổi mới giáo dục vẫn diễn ra chậm chạp, chắp vá, hiệu quả không cao. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết xác định 7 quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục. Đây là một nghị quyết đánh dấu một bước phát triển tư duy về giáo dục và đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung của Nghị quyết đã đánh giá toàn diện thành tựu và hạn chế trong lĩnh vực phát triển giáo dục và đào tạo kể từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đến năm 2013; xây dựng các quan điểm chỉ đạo; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Quan điểm chỉ đạo có vị trí, ý nghĩa quan trọng hàng đầu là: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Trọng tâm là “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” [4]. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã phản ánh quá trình phát triển toàn diện, hệ thống về tư duy giáo dục của Đảng. Thực hiện các quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngành giáo dục đang chuyển sang đào tạo theo năng lực, hướng vào phát triển năng lực cá nhân của người học.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tiếp tục kế thừa, cụ thể hoá và phát triển những quan điểm về giáo dục đã được xác định trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI. Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm: Giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển, đồng thời đặc biệt chú trọng các giải pháp, nhiệm vụ gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế. Đại hội nhấn mạnh, giáo dục, đào tạo hướng vào xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ. Trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp...

Như vậy, nhận thức của Đảng ta về giáo dục và đào tạo đã có một quá trình phát triển gắn với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước. Các quan điểm trên không chỉ thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức, kế thừa chủ trương nhất quán của Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mà còn là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát xu thế phát triển của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

2. Những nội dung phát triển mới về lý luận giáo dục trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Thứ nhất, phát triển mới về tầm nhìn và định hướng phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế của giáo dục, đồng thời chỉ ra những định hướng lớn cho sự phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tiếp theo. Tại mục 5 trong phần II của Báo cáo chính trị về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 đã xác định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới” [6, tr.115]. Như vậy, Đại hội đã vạch ra những định hướng lớn cho quá trình phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2030 như sau:

Định hướng thứ nhất là “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”. Tạo đột phá và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là điểm mới.

Định hướng thứ hai là “Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Điều đó có nghĩa là phải gắn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Định hướng thứ 3 là xác định mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2030 “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”. Đặt ra mục tiêu đến năm 2030, giáo dục tham gia đào tạo nhân lực cho thị trường lao động quốc tế.

Thứ hai, xác định vai trò của giáo dục và đào tạo trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ tiếp tục khẳng định quan điểm "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" mà đã đặt ra yêu cầu phải có cơ chế chính sách cụ thể để phát huy vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Vai trò của giáo dục và đào tạo được cụ thể hóa bằng quan điểm “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” [6, tr.136]. Tư tưởng về “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” và “phát triển con người” là những vấn đề lần đầu tiên được đặt ra trong Văn kiện Đại hội XIII. Mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.

Về phát triển con người, Đại hội XIII đặt ra mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và "Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc,... khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [6, tr.136-137]. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, phát triển giáo dục và đào tạo tương thích với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập quốc tế.

Đây là điểm mới về con đường, phương thức phát triển giáo dục và đào tạo trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên phạm vi toàn thế giới. Quan điểm gắn giáo dục và đào tạo với với khoa học và công nghệ đã được đặt ra từ những kỳ đại hội trước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Trong phần “Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025” đã xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục và đào tạo là: “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng” [7, tr.127-128]. Có hai vấn đề trong quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo tương thích với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập quốc tế.

Một là, gắn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập quốc tế trong hiện đại hóa giáo dục. Đại hội XIII đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo trong 5 năm tới trọng tâm là “hiện đại hóa giáo dục”, gắn quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Giáo dục và đào tạo không chỉ cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cho yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế mà còn sử dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra phương hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo phải tương thích với quá trình xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, thực hiện “số hóa giáo dục”, “dạy học trực tuyến”, dạy học qua internet v.v… Đó là những vấn đề hoàn toàn mới của giáo dục và đào tạo.

Hai là, gắn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội XIII chỉ ra “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao”. Phương thức phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”[6, tr.138]. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được đặt ra trong mối quan hệ với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được được thực hiện “trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ” [6, tr.54]. Đại hội XIII xác định một trong những đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [6, tr.37]. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là con đường để giáo dục, đào tạo tham gia thị trường lao động thế giới.

Thứ tư, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Trong mục “Định hướng phát triển đất nước” giai đoạn 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội XIII xác định “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài” [6, tr. 115]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 đã xác định một trong những đột phá chiến lược là “Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp” [6, tr.221]. Như vậy, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được Đại hội XIII đặt ra như một đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong 10 năm tới. Trọng tâm của đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tập trung trên những vấn đề sau:

Đột phá trong đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo. Đại hội XIII chỉ ra nhiệm vụ đột phá đầu tiên trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế” [6, tr.136]. Đây là những thành tố cấu trúc của quá trình giáo dục. Sự phát triển đồng bộ của các yếu tố này là vấn đề đang đặt ra trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Đồng thời với đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu trúc của quá trình giáo dục cần phải “Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học” [6, tr.232]. Vấn đề này, trong thực tiễn đã và đang được triển khai xây dựng, thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới, xem đây là một điểm đột phá làm cơ sở cho đổi mới hiện đại hóa giáo dục ở đại học và đào tạo nghề.

Đột phá trong đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là “Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo” [6, tr.232]. Vấn đề đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên được Đại hội XIII xem như một khâu đột phá nhằm tạo ra nguồn nhân lực làm trung tâm cho các hoạt động đổi mới giáo dục và đào tạo. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên được thực hiện đồng bộ từ ngay trong các nhà trường sư phạm và các trung tâm bồi dưỡng giáo dục.

Đột phá trong đào tạo theo năng lực. Đại hội XIII chỉ ra nhiệm vụ đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” [6, tr. 232]. Đây là sự tiếp tục phát triển quan điểm của Đại hội XII trong bối cảnh mới.

Thứ năm, xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thống nhất với quản lý và quản trị nhà trường.

Những quan điểm cơ bản về giáo dục và đào tạo được Đại hội XIII trình bày tập trung tại mục V trong Báo cáo chính trị, với tiêu đề: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”. Vấn đề đầu tiên được đặt ra trong mục này là “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước” [6, tr.136]. Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách là vấn đề được đặt lên hàng đầu đã phản ánh sự phát triển mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của công tác quản lý nhà nước về giáo dục. Điểm mới trong phương thức quản lý là nhấn mạnh tính đồng bộ của thể chế, chính sách và đồng bộ trong quản lý nhà nước với quản lý, quản trị nhà trường. “Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo” [6, tr,139]

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, Đại hội XIII chỉ ra khâu đột phá là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Đánh giá thực trạng quản lý giáo dục và đào tạo có đoạn viết: “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế” [6, tr.82]. Từ phân tích thực trạng đó, Đại hội XIII đã đề ra phương hướng giải pháp mới là “Đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” [6, tr.138-139]. Trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho giáo dục, trước hết phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý.

Tóm lại, những quan điểm về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận giáo dục của Đảng. Đó là sự tiếp tục phát triển các luận điểm của Đảng về giáo dục trong lịch sử, nhưng được phát triển ở tầm cao hơn, mang tính chính quy, đồng bộ, tính hệ thống nhất quán và khả thi cao. Đặc biệt các quan điểm về giáo dục và đào tạo đã gắn với quan điểm xây dựng, phát triển đất nước hướng tới 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045).

Những quan điểm về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII phản ánh sự nhanh nhạy của Đảng trong đổi mới tư duy lý luận theo hướng thích ứng với thực tiễn và xu thế thời đại. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, thành tựu của giáo dục và đào tạo trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1999-2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

8. Hồ Chí Minh (1945), “Thư gửi các học sinh”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tr.34.

 

PGS.TS Trần Đình Tuấn, Viện nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục

Ý kiến bạn đọc
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.