NGUYỄN ÁI QUỐC – NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
l. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập bị thực dân Pháp xâm lược trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân lao động bị 2 tầng áp bức. Tình hình xã hội có những biến đổi sâu sắc. Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa dẫn đến xuất hiện những giai tầng mới. Ngoài nông dân, địa chủ, phong kiến còn có giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc đã bùng lên trên khắp đất nước. Đầu tiên là phong trào do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo. Tiêu biểu như các phong trào của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thượng Thuật, … Điểm chung của các phong trào này là cuối cùng đều bị thất bại. Sự thất bại đó không phải vì thiếu nhiệt huyết hay thiếu lòng yêu nước mà nó phản ánh một thực tiễn rằng hệ tư tưởng phong kiến không còn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử nữa.
Cùng với phong trào của các văn thân, sĩ phu phong kiến là phong trào của nông dân, lực lượng đông đảo nhất của xã hội. Với truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược phong trào đấu tranh của nông dân lúc ban đầu tuy nhỏ lẻ nhưng liên tiếp nổ ra ở mọi vùng miền, ở đâu có giặc Pháp là ở đó có người dân Việt Nam chống Pháp. Tiêu biểu cho phong trào của nông dân là cuộc khởi nghĩa Yên Thế, do thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám đứng đầu đã huy động được đông đảo lực lượng tham gia và luôn được nhân dân che chở. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, bền bỉ nhất trong phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Nhưng do thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn, phương pháp khoa học, nên phong trào không phát triển được lực lượng mà chỉ dừng lại ở cuộc khởi nghĩa cục bộ và cuối cùng cũng bị thực dân Pháp bao vây, tiêu diệt.
Đầu thế kỷ 20, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc được phát triển theo cu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu là phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quan phục hội … Các phong trào này cuối cùng đều bị dập tắt. Bởi vì, lực lượng lãnh đạo của các phong trào đó vẫn là các sĩ phu Phong kiến đã đuối sức, không còn phù hợp với xu thế của thời đại mới.
Như vậy, từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do chính quyền nhà Nguyễn đã suy tàn không còn đủ sức lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Các phong trào tuy nổ ra liên tiếp nhưng phân tán, thiếu đường lối thống nhất. Những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước
Nguyễn Tất Thành sinh ra ở miền quê có truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ngay từ khi còn nhỏ và trong suốt tuổi trẻ của mình, ông đã chứng kiến những thăng trầm của các phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bằng nhãn quan chính trị thiên tài của mình ông sớm nhận ra rằng, con người Việt Nam rất giầu lòng yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm rất quật cường, bất khuất, nhưng các phong trào cuối cùng đều bế tắc và thất bại năng nề là do thiếu một cái gì đó. Vì vậy, tuy rất coi trọng hoạt động yêu nước của các vị tiền bối nhưng ông không có ý định đi theo con đường đó. Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã quyết định ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình của Pháp và Mỹ, tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin và đã tích cực, chủ động nghiên cứu tìm hiểu về cuộc cách mạng Nga. Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong thực tiễn hoạt động cách mạng kết hợp với nghiên cứu lý luận Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận về con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [6, tr.30]. Người đã xác định sơ bộ những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng nhãn quan chính trị thiên tài và những hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp Nguyễn Ái Quốc từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng chân chính của mình.
Ngày 29-12-1920, cùng với đa số tuyệt đối đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế thứ III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lenin thành lập từ tháng 3-1919). Ngay sau đó, thiểu số cánh hữu của Đảng Xã hội Pháp đã rời phòng họp, đa số đại biểu còn ở lại liền quyết định thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những đảng viên sáng lập đảng. Sự kiện này đánh dấu sự ra đời của Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời cũng chính thức ghi nhận việc Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một dấu mốc lớn nhất, quan trọng nhất trên hành trình tìm đường cứu nước của Người.
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các phong trào cộng sản quốc tế. Đó là quá trình mà Nguyễn Ái Quốc đã từng bước tự mình lột xác từ người yêu nước chân chính thành người cộng sản. Đó cũng là một bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc bắt đầu một loạt những hoạt động mới trên con đường chuẩn bị về mọi mặt cho cách mạng Việt Nam.
3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 11 tháng 1l năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước hết, Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Thông qua các lớp học nhằm chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một Đảng cách mạng. Sau khi học xong, các học viên lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân tham gia hoạt động cách mạng. Một số học viên được Nguyễn Ái Quốc gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Mátxcơva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Về tổ chức lực lượng, tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, giác ngộ một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã, lập ra Cộng sản đoàn, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quang Đạt, Lâm Đức Thụ.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, là đội tiền phong cách mạng của dân chúng Việt Nam.
Ngày 21-6-1925, tuần báo Thanh niên, cơ quan trung ương của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, cơ quan tuyên truyền của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để giáo dục, tập hợp và thống nhất tư tưởng, hành động của các chiến sĩ cách mạng và trang bị những kiến thức chính trị cho đội ngũ cán bộ vận động quần chúng.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Đến năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp, xuất bản thành cuốn sách “Đường kách mệnh”. Cuốn sách cùng với Báo Thanh niên đã trở thành những tài liệu chính trị đầu tiên để trang bị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để tuyên truyền đến giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Ngay trên đầu cuốn “Đường kách mệnh” Nguyễn Ái Quốc đã viết “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [4, tr.279]. Theo đó, việc trang bị lý luận cách mạng cho cán bộ là một nhiệm vụ quan trong trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của đảng cách mệnh.
Đến cuối năm 1927, đầu năm 1928 việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng đã chín muồi. Nhưng phần lớn cán bộ lúc bấy giờ là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước, giai cấp công nhân còn nhỏ bé về lực lượng và hạn hẹp về nhận thức, phong trào công nhân chưa đủ mạnh. Nhiệm vụ đặt ra là phải làm cho lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Thực hiện tư tưởng lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, ngày 29-9-1928, Hội nghị Kỳ bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đề ra chủ trương “Vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để cùng lao động với công nhân, từ đó rèn luyện, nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời trực tiếp tuyên truyền giác ngộ và tổ chức quần chúng đấu tranh cách mạng theo lập trường vô sản. Phong trào công nhân vì thế càng phát triển mạnh mẽ hơn và trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước.
Nhờ vậy, số lượng công nhân được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tăng lên rất nhanh. Năm 1927, thành phần công nhân mới chiếm tỷ lệ 5% trong tổng số hội viên của Kỳ bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ, nhưng đến năm 1929, tỷ lệ này tăng lên 10%. Đến giữa năm 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bước đến giai đoạn hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Truyền bá một cách rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin và các luận điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, tập hợp và đào tạo được một đội ngũ cán bộ cách mạng tạo nên bước nhảy vọt và sự chuyển hóa của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, hướng vào quỹ đạo cách mạng vô sản.
Cuối tháng 3 năm1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 5D, phố Hàm Long (Hà Nội) đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, gồm 7 đảng viên (Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính và Kim Tôn còn gọi là Nguyễn Tuân).
Tại Đại hội lần thứ nhất (đầu tháng 5-1929) của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kỳ đặt vấn đề phải thành lập ngay Đảng Cộng sản để thay thế Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, song không được chấp nhận nên đoàn đã bỏ Đại hội về nước. Đến ngày 17 tháng 6 năm 1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội tại nhà số 312, phố Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.
Tháng 8-1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1929 đến ngày 1 tháng 1 năm 1930, một số nhân vật trong Đảng Tân Việt đã đứng ra thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung Kỳ.
Như vậy, sự ra đời của 3 tổ chức Cộng sản là một xu thế khách quan của cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam theo con đường Cách mạng vô sản. Nguồn gốc sâu xa, đó là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức của Nguyễ Ái Quốc. Nhưng các tổ chức đó đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng với nhau, làm cho phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Trước tình hình đó, ngày 27 tháng 10 năm 1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức cộng sản ở Đông Dương yêu cầu các tổ chức đó thống nhất lại thành một Đảng Cộng sản duy nhất. Bức thư chỉ rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương” [2, tr.614]. Quốc tế Cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc trách nhiệm thay mặt Quốc tế Cộng sản thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất.
Thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, với vai trò là đại diện của Quốc tế Cộng sản ở khu vực Đông Nam Á, với trách nhiệm và nhãn quan chính trị thiên tài của mình, Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm gấp rút đi Singapo rồi đến ngay Hương Cảng để thực hiện mục tiêu giải quyết sự bất đồng và thống nhất các tổ chức cộng sản. Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết Canh Ngọ, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, do Nguyễn Ái Quốc triệu tập, chuẩn bị và chủ trì, đã được tiến hành trong căn nhà nhỏ của một gia đình công nhân tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng. Tham dự Hội nghị có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đại diện của Quốc tế Cộng sản, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và hai đại biểu nước ngoài. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, vì mới thành lập, không kịp cử đại biểu đến họp.
Tại Hội nghị Nguyễn Ái Quốc phê phán các tổ chức Cộng sản đã chia rẽ, thiếu tinh thần đoàn kết, chỉ rõ những sai lầm và hệ quả. Sau khi thảo luận sôi nổi, tự phê bình và phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm đã qua, Hội nghị đã đi tới hoàn toàn nhất trí về việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị chính thức bầu Trịnh Đình Cửu làm Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Hội nghị còn quyết định thành lập các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo là: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sản đoàn, Hội phụ nữ giải phóng, Hội Cứu tế đỏ. Cuối cùng, Hội nghị thông qua lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi toàn thể nhân dân Việt Nam, nhân dịp Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Trong thư kêu gọi có đoạn viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng” [5, tr.22].
Sau hội nghị, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đề nghị xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24 tháng 2 năm 1930 Ban Chấp hành Trung ương lâm thời nhóm họp và đã chính thức chấp thuận đề nghị. Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức ra đời, trên cơ sở hợp nhất 3 tổ chức đảng trong nước.
4. Kết luận
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là sự vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc về nguyên tắc thành lập đảng ở Việt Nam bằng sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nếu không có sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho các lớp cán bộ do Nguyễn Ái Quốc tổ chức, đào tạo, rèn luyện; không có Hội Thanh niên cách mạng và không có quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào cách mạng trong nước thì không có các tổ chức đảng cộng sản đầu tiên và cũng không có sự hợp nhất 3 tổ chức đảng đó thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của các tổ chức đảng đầu tiên trong nước. Và chính Nguyễn Ái Quốc chỉ trong một thời gian rất ngắn đã hợp nhất các tổ chức đảng đó thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định rõ ràng đường hướng của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Một lần nữa có thể khẳng định rằng, sự ra đời, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Các tổ chức tiền thân của Đảng, Hà Nội, 1977, tr. 149.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr.614.)
3. Vũ Như Khôi (Chủ biên), Đảng Cộng sản Việt Nam 90 năm (1930 - 2020) - những chặng đường lịch sử vẻ vang, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2020.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.279.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 22.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 30.
7. Mạch Quang Thắng (Chủ biên), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2017
8. Trần Đình Tuấn, Tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đào tạo trình độ đại học tại Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010.
PGS. TS. NGUT Trần Đình Tuấn
Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục