NÂNG CAO PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Nguyễn Văn Nhất
Trường Sĩ quan Chính trị -Bộ Quốc phòng
1. Đặt vấn đề
Phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên là sự phản ánh nhân cách của họ về mặt chính trị; thể hiện sức mạnh tinh thần của cán bộ, đảng viên trong đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp công nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được biểu hiện thông qua thực hiện chức trách nhiệm vụ và tham gia vào các quan hệ chính trị-xã hội. Phẩm chất chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp họ giữ vững được định hướng chính trị trong mọi hoạt động và định hướng cho các phẩm chất khác hình thành và phát triển. Trong kỷ nguyên mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên đóng vai trò hết sức quan trọng để giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách, vượt qua cám dỗ vật chất để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Cùng với những lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…của quá trình hội nhập quốc tế, chuyển đổi số đem lại cho Việt Nam còn có những tác động tiêu cực cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là tác động đến phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những tác động tiêu cực đó đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên “vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội thực dụng, bè phái gây mất đoàn kết nội bộ” [5, tr.178-179]. Chính vì vậy, nâng cao phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên trong kỷ nguyên mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là điều cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số thách thức đối với phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên kỷ nguyên mới
Một là, tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực và trong nước.
Thời kỳ hội nhập quốc tế làm tăng sự phụ thuộc của các quốc gia vào nhau nhiều hơn, ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn, những nguy cơ, thách thức của các nước trên thế giới không chỉ còn là vấn đề của riêng một nước nào mà nó là vấn đề chung của nhiều quốc gia. Thực tế cho thấy, trên thế giới mâu thuẫn chủ yếu của thời đại vẫn còn tồn tại và ngày càng sâu sắc hơn, biểu hiện với nhiều hình thức mới và đa dạng hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn; chủ nghĩa thực dụng gia tăng mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Những vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến khó lường và ngày càng nghiêm trọng hơn, xung đột quân sự, chiến tranh kinh tế. Đảng ta nhận định “chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia ” [5, tr.88]”. Bên cạnh đó, khu vực Châu Á-Thái Bình dương trong đó có khu vực Đông Nam Á chiếm một vị trí địa kinh tế-địa chính trị ngày càng quan trọng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột như tranh chấp trên Biển Đông, an ninh hàng hải, xung đột biên giới, tội phạm xuyên biên giới. Đối với tình hình trong nước, độ mở của nền kinh tế lớn làm các tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh hơn, nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia còn gặp nhiều khó khăn thách thức. Nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội như: tham ô, tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, hàng giả, hàng nhái, tội phạm có tổ chức, v.v., gây bức xúc trong Nhân dân. Bên cạnh đó, thực hiện cải cách hành chính, bộ máy nhà nước đã tác động không nhỏ đến tâm tư, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế, cải cách hành chính, tinh giản bộ máy của Việt Nam, công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, các thế lực thù địch tích cực tuyên truyền chống phá trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Thực tế những năm qua cho thấy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng với quy mô ngày càng lớn, hình thức đa dạng hơn, phức tạp về tính chất, làm cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng diễn ra quyết liệt và tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội. Mục đích chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch đó là phá vỡ nền tảng chính trị, tinh thần của xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa quan điểm tư tưởng phi vô sản, phản động vào trong Đảng, trong xã hội, phá vỡ sự đồng thuận trong xã hội, gây mất đoàn kết, nghi ngờ nội bộ. Để thực hiện được mục đích đó đối với nước ta, chúng lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước, sự tha hóa của một bộ phận cán bộ, sự quyết liệt trong thực hiện cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, làm công tác nhân sự cho Đại hội XIV của Đảng để tác động vào nhận thức cán bộ đảng viên nói riêng dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và nghi ngờ trong nội bộ. Bên cạnh đó, chúng đòi thay đổi một số điều trong Hiến pháp, pháp luật, điều lệ Đảng, đẩy mạnh chiêu trò vu cáo và xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã giành được; gây mất đoàn kết toàn dân tộc, khoét sâu mâu thuẫn xã hội; ru ngủ ý chí đấu tranh cách mạng của nhân dân ta; phủ nhận những giá trị chủ nghĩa xã hội Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã xây dựng. Từ đó, dần hình thành các giá trị, các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tấm gương người cộng sản chân chính của thế hệ đi trước thực sự tấm gương để các thế hệ cán bộ, đảng viên noi theo. Họ có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện các thế hệ cán bộ, đảng viên trở thành những người thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Bởi lẽ, theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền” [7, tr.284]. Tuy nhiên, thực tế những năm qua cho thấy, “một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến", “tự chuyển hoá”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Nhận thức về Đảng, động cơ phấn đấu vào Đảng của không ít đảng viên chưa đúng, không trong sáng”[3], không những thành phần phản động mà chính cán bộ, đảng viên công tác lâu năm cũng có biểu hiện xét lại, mơ hồ, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, dao động lý tưởng, muốn đa nguyên đa đảng, xét lại lịch sử. Có những cán bộ, đảng viên giữ chức vụ quan trọng trong Đảng, chính quyền xuất hiện những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân như tham ô, ích kỷ, thực dụng, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của xã hội, nói không đi đôi với làm. Họ không thật sự là tấm gương để các thế hệ cán bộ, đảng viên noi theo. Những hạn chế đó tồn tại trong giai đoạn khó khăn của đất nước, đặc biệt diễn ra ở những cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã tác động không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác cán bộ và rèn luyện cán bộ của Đảng ta thời gian vừa qua.
Như vậy, có thể thấy những thách thức nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên. Chính vì thế, các chủ thể cần nhận thức rõ ràng những thách thức trên làm cơ sở đề ra những biện pháp nâng cao phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên trong kỷ nguyên mới.
2.2. Giải pháp cơ bản nâng cao phẩm chất chính trị cho cán bộ, đảng viên trong kỷ nguyên mới.
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong kỷ nguyên mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “phải có tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lệch và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được ”[9, tr.360]. Nhận thức rõ tầm quan trọng nâng cao phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên làm cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp và xác định những nội dung, phương pháp bồi dưỡng phù hợp, hiệu quả và đánh giá đúng vai trò, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức đối với công tác này.
Tầm quan trọng của phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên thể hiện đó là cơ sở tạo nên bản lĩnh chính trị của Đảng, quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở năng lực đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, khoa học và hiện thực hóa chủ trương, chính sách đó trong thực tiễn đạt hiệu quả. Khi phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với đảng cầm quyền đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Ngược lại, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” …điều đó làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Do đó, nâng cao phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với việc củng cố vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng ta cũng như sự bền vững của chế độ trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nâng cao phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay cần sử dụng nhiều biện pháp khác nhau và phải được tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới. Như thông qua sinh hoạt chính trị, bồi dưỡng của các cấp; thông qua tuyên truyền, sinh hoạt phê bình, tự phê bình; thông qua kiểm tra đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm; thực hiện tốt việc nêu gương và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đồng thời xem phẩm chất chính trị là một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu khi xem xét, bổ nhiệm cán bộ, đảng viên và đánh giá cán bộ hàng năm.
Hai là, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và thực hiện tốt chế độ học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên.
Thực hiện tốt phương châm “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”[5, tr. 235- 236]. Để làm được điều đó, cấp ủy đảng các cấp và mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt và triển khai nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết, quy định về học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao trình độ lý luận chính với đạo đức cách mang trong giai đoạn mới như Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị Về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Kết luận số 57-KL/TW ngày 08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 26/5/2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; Quy định số 144-QĐ/TW (ngày 9/5/2024) Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới, v.v.. Đổi mới nội dung, chương trình bảo đảm thiết thực hiệu quả hướng đến bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho cán bộ, đảng viên; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng cả về “đức” và “tài”. Làm tốt công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học tập lý luận chính trị, coi đó là một trong những tiêu chí đánh giá, thi đua khen thưởng hàng năm đối với cán bộ, đảng viên. Đồng thời, thường xuyên rút kinh nghiệm công tác học tập lý luận chính trị cả về nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức để rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong học tập lý luận chính trị trong giai đoạn mới.
Ba là, rèn luyện phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên trong thực tiễn công tác.
Cũng như các phẩm chất khác của người cán bộ, đảng viên, phẩm chất chính trị cần phải được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng. Kết quả hoạt động thực tiễn là tiêu chí, là thước đo quan trọng nhất đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế”[8, tr.274-275]. Thông qua rèn luyện trong thực tiễn, họ tích lũy kinh nghiệm, nâng cao phẩm chất, năng lực công tác. Do đó, các cấp ủy đảng cần thực hiện tốt phương châm “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”[5, tr. 236]. Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm Quy định Số 65-QĐ/TW của Ban chấp hành Trung ương về luân chuyển cán bộ để “tạo điều kiện cho cán bộ trong quy hoạch có môi trường để rèn luyện, am hiểu thực tiễn, phát triển toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ” và “vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trước mắt, vừa đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ lâu dài”[2]. Kết hợp luân chuyển với tăng cường cán bộ cho những nơi khó khăn để phát hiện người tài, để rèn luyện, thử thách, chuẩn bị đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý lâu dài của đất nước.
Bốn là, phát huy nhân tố chủ quan tích cực của cán bộ, đảng viên trong nâng cao phẩm chất chính trị của họ.
Đây là giải pháp mang ý nghĩa quyết định đến nâng cao phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên. V.I.Lênin khẳng định “không tự mình chịu bỏ ra một công phu nào đó thì không thể tìm ra chân lý trong bất cứ một vấn đề hệ trọng nào cả” [6, tr.82].
Do đó, bản thân người cán bộ, đảng viên cần phải tự nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cao phẩm chất chính trị của bản thân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Từ đó chuyển hoá yêu cầu thành nhu cầu tự thân, nội lực bên trong, khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành trách nhiệm chính trị với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng. Trên cơ sở đó, họ tự xây dựng kế hoạch tự học tập, tu dưỡng khoa học, thiết thực, sát thực tiễn; xây dựng ý chí, quyết tâm thực hiện kết hoạch đã xác định nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phương pháp, tác phong công tác của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “muốn thành cán bộ tốt phải có tinh thần tự chỉ trích… Cần phải nhận thức và tự giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành thực tự vạch ra những khuyết điểm sai lầm để bồi bổ và sửa đổi đi….Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng cơ quan các cấp cần tạo điều kiện về vật chất, tinh thần và thời gian cho cán bộ, đảng viên tự học tập tự tu dưỡng; thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi và kiểm tra hoạt động tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, kịp thời cổ vũ động viên ưu điểm, phê bình khuyết điểm. Đồng thời, hướng dẫn cụ thể về những nội dung, phương pháp tự tu dưỡng, tự rèn luyện phẩm chất chính trị. Xây dựng cơ chế, chính sách để khuyến khích mỗi người đều nỗ lực rèn luyện để nâng cao phẩm chất chính trị của mình.
Trong giai đoạn đất nước có những bước chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng sự phát triển của thực tiễn cách mạng, sự phát triển của khoa học công nghệ, v.v., đã đặt ra yêu cầu rất cao về mọi mặt đối với mội cán bộ, đảng viên, trong đó có phẩm chất chính trị. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập, tu dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao phẩm chất chính trị, hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao phó.
3. Kết luận
Trong kỷ nguyên mới, vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng lên, đem lại cho Việt Nam những cơ hội phát triển, vươn mình. Tuy nhiên, mặt trái của thời kỳ này cũng chứa nhiều thách thức đối với cán bộ, đảng viên trong đó có tác động tiêu cực đến phẩm chất chính trị của họ. Đây là những thách thức mà các chủ thể cần nhận thức rõ và thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng giúp họ giữ vững được tính chính trị trong các hoạt động của mình. Nâng cao phẩm chất chính trị giúp cán bộ, đảng viên tránh xa được những cám dỗ vật chất tầm thường để thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện mới.
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết Số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội.
[2]. Ban chấp hành Trung ương(2022), Quy định số 65-QĐ/TW của Ban chấp hành Trung ương Về luân chuyển cán bộ, Hà Nội, ngày 28/4/2022
[3]. Ban chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết Số 21-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương đảng khoá XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới, Hà Nội ngày 16/6/2022.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam(2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG-ST, Hà Nội.
[5]. Đảng cộng sản Việt Nam(2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb CTQG-ST, Hà Nội.
[6]. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 23, Nxb CTQGST, Hà Nội.
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011
[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2011
[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011
[12]. Văn phòng Trung ương Đảng (2016), Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương khóa XII, Hà Nội.