Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (8 - 1945) và Quốc khánh (2 - 9): VAI TRÒ LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
PGS, TS, NGƯT Vũ Như Khôi
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
TCGCVN - Ngày 01 tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Đây là hậu quả tất yếu của mâu thuẫn mất còn và sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh thế giới đã cuốn nhân loại vào cuộc tàn sát đẫm máu cùng sự thống trị tàn bạo của các thế lực phát xít, đế quốc. Chiến tranh bắt đầu nổ ra từ châu Âu, nhưng đã nhanh chóng lan sang châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có xứ Đông Dương. Tháng 9 năm 1940, quân Nhật đổ bộ vào Việt Nam, quân Pháp đầu hàng, trở thành tay sai cho phát xít Nhật, nhân dân ta rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Nhân dân ta rên xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật - Pháp. Sự vùng dậy đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân dân ta là tất yếu.
Tình hình thế giới và trong nước có chuyển biến nhanh chóng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gấp rút trở về nước thực hiện khát vọng: “Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [1, tr.209]. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, sau 30 năm xa Tổ quốc, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung. Người ở và làm việc tại hang Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, Người chỉ đạo phong trào cách mạng và chuẩn bị mở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pác Bó (thường gọi là Hội nghị Trung ương 8). Hội nghị Trung ương 8 đánh giá mâu thuẫn chủ yếu cấp bách trong xã hội nước ta là mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc pháp xít Pháp - Nhật, từ đó xác định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” [4, tr.113]. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao đánh thức được tinh thần chống ngoại xâm của nhân dân mỗi nước. Do đó, Hội nghị quyết định mỗi nước trên bán đảo Đông Dương lập một mặt trận dân tộc thống nhất. Ở việt Nam, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các đoàn thể quần chúng yêu nước chống đế quốc đều thống nhất lấy tên là “Hội cứu quốc”. Sau khi đánh đuổi Pháp, Nhật, giành được chính quyền, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hội nghị Trung ương Đảng quyết định xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân trong giai đoạn hiện tại. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải kết thúc bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Muốn cho cuộc khởi nghĩa vũ trang thắng lợi, phải có đủ những điều kiện khách quan và chủ quan, phải chọn đúng thời cơ cách mạng.
Đối với điều kiện chủ quan, vấn đề quyết định đầu tiên phải là xây dựng mặt trận cứu quốc thống nhất cả nước; phải có đội ngũ đảng viên có tinh thần cương quyết hy sinh, có đủ năng lực và kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy quần chúng cách mạng; phải có những tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính trong hàng ngũ địch; phải chuẩn bị sẵn sàng để khi thời cơ đến, ta có thể chủ động phát động khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn [4, tr.132]. Hội nghị cũng quyết định xây dựng căn cứ vũ trang ở vùng miền núi Việt Bắc, trước hết là căn cứ Cao Bằng.
Hội nghị Trung ương 8 dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh với các
quyết sách lớn là nguồn sáng dẫn đường cho tiến trình chuẩn bị và tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám.
Ngày 06 tháng 6 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân nêu cao truyền thống yêu nước, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi Pháp - Nhật, giành tự do độc lập cho dân tộc. Bức thư của Người như lời hiệu triệu của non sông đất nước, khơi dậy tinh thần yêu nước của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, cùng dứng dậy tự cường, đem sức mình để tự giải phóng.
Sau Hội nghị Trung ương 8, bên cạnh việc chỉ đạo xây dựng lực lượng các đội vũ trang và thực hiện đấu tranh du kích, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng Các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên giáp, Vũ Anh khẩn trương chỉ đạo xây dựng căn cứ địa Cao Bằng. Cuối năm 1941, Lãnh tụ Nguyễn Áí Quốc quyết định thành lập Đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng. Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan của đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, tự vệ chiến đấu, thực hiện các công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Người trực tiếp tham gia huấn luyện chính trị và quân sự cho đội du kích tập trung này.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm cách mạng trong nước và cũng là một trung tâm tranh thủ ủng hộ từ bên ngoài.
Từ năm 1941 đến đầu năm 1944, mặt trận Việt Minh phát triển nhanh chóng ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng. các đội du kích ra đời vượt qua sự khủng bố của địch, duy trì và phát triển lực lượng.
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng người Việt Nam và lực lượng phe Đồng Minh nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài giúp ta chống Nhật. Tuy nhiên, ngày 27 tháng 8 năm 1942, lãnh tụ Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam. Người bị giam cầm trong suốt 13 tháng trời. Trong cảnh lao tù tăm tối, nhưng với nghị lực phi thường, ý chí sắt đá, tinh thần bất khuất và bản lĩnh kiên cường, lãnh tụ Hồ Chí Minh vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, vẫn ung dung tự tại; Người còn sáng tác một tập thơ chữ Hán Nhật ký trong tù có giá trị lịch sử và văn học lớn.
Tháng 7 năm 1944, Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong Liên tỉnh. Tháng 10 năm 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), đáng lẽ cấp uỷ địa phương phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố nhưng lại phát động khởi nghĩa.
Cũng vào tháng 10 năm 1944, chính quyền Tưởng Giới Thạch buộc phải trả tự do cho Hồ Chí Minh, Người từ Trung quốc về tới Pác Bó. Sau khi nghe báo cáo và nắm lại tình hình, với nhãn quan chính trị sắc bén, Người đã quyết định đình chỉ việc phát động chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn và đình chỉ cuộc khởi nghĩa ở Cao - Bắc - Lạng, giúp cho cách mạng ở vùng này tránh khỏi tổn thất lớn. Người chỉ rõ: “Bây giở thời kỳ cách mạng hoà bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới, nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên” [6. Tr.83]. Rồi Người đề ra phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang lúc này: “Bây giờ nên tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ lập đội Quân giải phóng” [6, tr.83]. Ngay lúc này, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm việc xây dựng lực lượng vũ trang.
Để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, tháng 12 năm 1944, tại căn cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ thị nêu rõ: Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là tập trung lực lượng, cho nên theo chỉ thị mới của Đoàn thể sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực… Đội quân chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang địa phương, giúp đỡ về huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành lên mãi… Về chiến thuật, vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, đi khắp đất nước Việt Nam” [2, tr.540].
Lãnh tụ Hồ Chí Minh giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức và lãnh đạo, chỉ huy Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Theo chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 12 năm 1944, lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được tiến hành trong một khu rừng giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) do đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ lễ tuyên bố thành lập Đội. Dưới lá cờ cách mạng - cờ đỏ sao vàng năm cánh, toàn Đội gôm 34 cán bộ, chiến sĩ đã long trọng tuyên đọc Mười lời thề danh dự. Mười lời thề danh dự của Đội đã trở thành cơ sở để định ra Mười lời thề danh dự của Quân đội ta sau này.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thực sự là đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng, xứng đáng là đội tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này và ngày 22 tháng 12 năm 1944 được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, chỉ mấy ngày sau khi thành lập, Đôi Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với quyết tâm “trận đầu nhất định phải thắng” đã tiêu diệt gọn hai đồn địch ở Phai Khắt và Nà Ngần. Một tuần sau, đội đã phát triển thành một đại đội gồm 3 trung đội.
Đồng thời với việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã nghĩ đến xây dựng một cơ cấu tổ chức đại biểu cho sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng và hành động của toàn dân. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc tháng 10 năm 1944, Người dự báo tình hình: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa” và kêu gọi các đảng phái và các đoàn thể ra sức chuẩn bị để khai cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội trong năm nay, như vậy thì “ngoại viện nhất định cầu được, cứu quốc nhất định thành công” [2, tr.538].
Đúng như dự báo của lãnh tụ Hồ chí Minh, cuối năm 1944, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô mở cuộc tấn công như vũ bão về phía tây, lần lượt giải phóng các nước Trung, Đông Âu. Đêm 8 tháng 5 năm 1945, Phát xít Đức đầu hàng Hồng quân Liên Xô và quân đội các nước Đồng minh. Ở châu Á - Thái Bình Dương, phát xít Nhật đã phải lùi trên khắp các mặt trận, sự thất bại của Nhật chỉ còn trong gang tấc.
Ở Đông Dương, tình trạng tạm thời hoà hoãn giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp chấm dứt, mâu thuẫn giữa chúng đã gay gắt như “cái nhọt bọc nhất định phải vỡ mủ”. 8 giờ tối ngày 09 tháng 3 năm 1945, Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị đã theo dõi, phân tích tình hình và ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc: Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử; chính quyền Pháp tan rã; chính quyền Nhật đang chưa ổn định và ngày càng suy yếu; các tầng lớp đứng giữa hoang mang; quần chúng cách mạng mong muốn được hành động. Hội nghị chỉ rõ: Sau cuộc đảo chính Pháp của Nhật, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Do Đó , phải thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật, chống lại chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật”. Bản Chỉ thị yêu cầu các địa phương phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, chủ động, sáng tạo, táo bạo hơn. Những chủ trương sáng suốt, kịp thời của Thường vụ Trung ương đã động viên mạnh mẽ các lực lượng cách mạng của toàn thể dân tộc, tạo ra thời cơ và nắm chắc thời cơ đồng loạt đứng lên đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật và chính quyền tay sai do Nhật dựng lên.
Lo sợ trước phong trào cách mạng của nhân dân ta, phát xít Nhật huy động lực lượng quân sự tiến công vây quét các chiến khu và cơ sở cách mạng. Mũi nhọn của cuộc đàn áp, khủng bố của địch nhằm vào các tổ chức của Đảng, của Mặt trận Việt Minh.
Những chính sách ác độc của phát xít Nhật dẫn đến hậu quả chỉ trong vòng mấy tháng đầu năm 1945, hai triệu đồng bào ta bị chết đói thê thảm. Bị dồn ép đến cùng cực, nhân dân ta không thể chịu đựng được nữa, khắp Bắc Kỳ, Trung Kỳ, đâu đâu quần chúng cũng vùng lên mạnh mẽ. Từ tháng 3 năm 1945, cách mạng Việt Nam tiến lên cao trào. Đấu tranh chính trị phát triển mạnh, ở nhiều địa phương đã kết hợp đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng. Ở căn cứ Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân cũng nắm vững thời cơ, mở rộng địa bàn hoạt động, đẩy mạnh chiến tranh du kích, nhanh chóng phát triển lực lượng và tiến xuống phĩa nam. Các lực lượng vũ trang cách mạng tiến đến đâu, lập tức các lực lượng chính trị của quần chúng cách mạng nổi dậy ủng hộ và phối hợp hoạt động đến đó. Bộ máy thống trị của phát xít Nhật và bọn tay sai bị xoá bỏ, chính quyền nhân dân được thành lập ở nhiều địa phương.
Trong khí thế cách mạng dâng lên, ngày 15 tháng 4 năm 1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ để tích cực chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Theo quyết định của Hội nghị, ngày 15 tháng 5, Lễ thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng khác thành Việt Nam Giải phóng quân. Việt Nam Giải phóng quân lúc này đã phát triển thành nhiều chi đội (tương đương với trung đoàn). Các căn cứ kháng Nhật được xây dựng trên những địa bàn chiến lược trong cả nước.
Theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 6 năm 1945, Khu giải phóng bao gồm sáu tỉnh Việt bắc được thành lập và xây dựng thành một căn cứ vững chắc, làm bàn đạp tiến xuống giải phóng toàn quốc. Tân trào (Tuyên Quang) được chọn làm thủ đô của Khu giải phóng. Đồng thời Lãnh tụ Hồ Chí Minh còn chỉ thị chuẩn bị triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Việt Nam.
Thanh thế Việt Minh ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ, cao trào kháng Nhật cứu nước cuồn cuộn dâng lên suốt từ bắc đến nam. Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Toàn Đảng, toàn dân ta đội ngũ đã sẵn sàng, gấp rút chuẩn bị những công việc cuối cùng để đón lấy thời cơ vùng dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Đầu tháng 5 năm 1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt quân phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện (ngày 8 tháng 5 năm 1945). Sau đó, Hồng quân Liên Xô quay sang tiến công đánh thắng hơn một triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật, cùng quân đội các nước Đồng minh đánh thắng quân Nhật trên mặt trận Thái Bình Dương, buộc phát xít Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Ở Việt Nam, Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên lâm vào tình trạng hoang mang cực độ. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam đã lâm vào tình trạng khốn quẫn. Thời cơ cách mạng đã xuất hiện. Tuy nhiên, quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh sẽ vào Đông Dương để tước vũ khí quân Nhật; họ sẽ can thiệp vào công việc ở Việt Nam với nhiều mưu đồ khác nhau. Vì thế vấn đề giành chính quyền của nhân dân ta được đặt ra cấp bách như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.
Với tinh thần tích cực, chủ động, khẩn trương, luôn theo dõi chặt chẽ tình hình để quyết định những bước đi thích hợp và kịp thời, ngay sau khi nghe tin Nhật Bản đã gửi công hàm chấp nhận đầu hàng Đồng minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Thường vụ Trung ương họp quyết định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc và phải mở ngay Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn kế hoạch cụ thể lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị: “nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội” [5, tr.56]. Đồng thời Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng hạ lệnh cho toàn thể các lực lượng vũ trang và nhân dân trong vùng đứng lên khởi nghĩa.
Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào. Hội nghị quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị cử ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trung ương Đảng đứng đầu. Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành chính quyền và kiện toàn Ban chấp hành Trung ương. Đêm 13 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc thì ngày 16 tháng 8 năm 1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập đã họp. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng; quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài “Tiến quân ca” làm Quốc ca và cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Trong thời điểm nóng bỏng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước. Trong thư, Người thiết tha kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!” [2, tr.595].
Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ bắc tới nam đã vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cả nước trong vòng 15 ngày.
Ngày 02 tháng 9 năm 1945, hàng chục vạn nhân dân Hà Nội và các tỉnh lân cận đã kéo về Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) dự cuộc mít tin mừng độc lập. Tại cuộc mít tinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên cáo với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [3, tr.4].
Cách mạng tháng Tám thành công dẫn đến nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đó là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc ta, đưa nước ta từ đêm trường nô lệ sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, mở ra những thành tựu, những chiến công chói lọi mới trong những chặng đường lịch sử tiếp theo. Có được thắng lợi vĩ đại cuộc Cách mạnh tháng Tám là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, có sự đồng tâm hiệp lực của toàn dân tộc, đặc biệt có sự dẫn dắt, sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng, của dân tộc ta. Công lao trời biển đó của Người đời đời được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh. Ngày nay, đất nước đang bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình tới giàu mạnh phồn vinh, chúng ta nguyện tuyệt đối trung thành với tư tưởng vĩ đại của Người, đi theo con đường cách mạng Người đã chọn, lao động, chiến đấu, công tác và học tập hết mình vì sự trường tồn và phát triển của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 209.
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 540.
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.4
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2 000, tr. 113.
[5]. Nguyễn Lương Bằng, Những lần gặp Bác, in trong Bác Hồ, Hồi ký (in lần thứ hai), Nxb Văn học, H, 1975, tr. 56.
[6]. Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2006, tr. 83