1. Vấn đề hôm nay
  2. >
  3. Tiêu điểm

GIÁO SƯ, VIỆN SĨ PHẠM MINH HẠC – NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC QUÂN SỰ VIỆT NAM

08:30 | 09/06/2024
aA

1. GS. VS. Phạm Minh Hạc - người có công lớn đào tạo, huấn luyện các nhà tâm lý học quân sự Việt Nam từ bước khởi đầu nhằm xây dựng chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam

Tôi còn nhớ, vào năm 1968, cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đang bước vào giai đoạn quyết định. Cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1968 đã làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn lúc đó bất ngờ, choáng váng. Cũng lúc này, GS. Phạm Minh Hạc [1] đã bắt đầu có những cuộc làm việc với lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, đại diện là Trung tá Hoàng Linh [2] là Trưởng phòng nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị về những yêu cầu mới đặt ra là cần có những hiểu biết về tâm lý con người nói chung, tâm lý người chiến sĩ nói riêng, cần hiểu rõ hơn về người lính – người chiến sĩ đang cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sau đó tìm cách động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu, lòng dũng cảm hy sinh vì nền độc lập của dân tộc Việt Nam của những người lính này. Ý tưởng xây dựng một nền Tâm lý học quân sự Việt Nam đã có manh nha từ GS. Phạm Minh Hạc và các cán bộ cộng sự với ông, Tôi được biết, đã có nhiều buổi gặp gỡ, nhiều buổi nói chuyện cá nhân, nhiều buổi trao đổi theo nhóm những người tâm huyết vì một ngành khoa học mới cần cho quân đội, và ngành khoa học này chúng ta cần phải có hiểu biết thực sự về nó [3].  Nhiều buổi trò chuyện, trao đổi chính thức và không chính thức, nhiều bài giảng đã diễn ra về những vấn đề tâm lý con người, về khoa học Tâm lý học, về Tâm lý học quân sự đã diễn ra tại nơi làng quê nghèo, nơi sơ tán của Cục Tuyên huấn -Tổng Cục Chính trị thuộc thôn Phùng Thượng, Sơn Tây [4].

Tôi còn nhớ, năm 1973, với quân hàm Trung úy từ chiến trường trở về học bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác Tuyên huấn tại Học viện Chính trị Quân sự để rồi sau đó lại trở lại chiến trường. Tại lớp học này, lần đầu tiên tôi đã dược nghe các bài giảng về Tâm lý học quân sự do các cán bộ - nhà nghiên cứu Tâm lý học quân sự thuộc Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam lúc đó thực hiện. Các bài giảng này đã thực sự mang tâm trí, tri thức và lòng nhiệt huyết của Tiến sĩ Tâm lý học Phạm Minh Hạc đóng góp cho sự phát triển của quân đội nhân dân Việt Nam [5].

Tháng 5 - 1974, một cuốn sách giới thiệu chuyên về tri thức Tâm lý học quân sự đã xuất hiện, như trong “Lời nói đầu” của sách đã viết “được sự giúp đỡ rất tận tình của nhiều cơ quan, nhiều đồng chí làm công tác nghiên cứu tâm lý học trong và ngoài quân đội” [6]. Cuốn sách mang tên “Tâm lý học” đã ra đời [7]. Sách mang tên “Tâm lý học”, nhưng toàn bộ nội dung bên trong đã đề cập đến các vấn đề của tâm lý học quân sự.  Cuốn sách chính là minh chứng đầu tiên ghi dấu ấn đóng góp to lớn của TS. Phạm Minh Hạc từ lúc khởi đầu cho chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam.

 

Năm 1975, Khoa Tâm lý- Giáo dục Quân sự thuộc Học Viện Chính trị Quân sự được thành lập. Lúc đó tôi mang quân hàm Thượng úy, trở thành Giảng viên của Khoa Tâm lý-Giáo dục Quân sự. Tôi còn nhớ, mùa hè năm 1976, tôi đã đến tận nhà GS. Phạm Minh Hạc, mời Ông đi giảng bài về Tâm lý học cho Lớp tập huấn cán bộ Chính trị toàn quân tại Học viện Hậu cần [8]. Lúc đó nhà Ông ở làng Ngọc Hà, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Xe đưa đón Ông là một chiếc xe con quân sự bình thường. Nghe Ông giảng, các học viên náo nức vì lần đầu tiên tự nhận ra những tri thức tâm lý học thường xuyên hiện hữu ngay trong cuộc sống hàng ngày của chính mình mà mình lại không hề hay biết, nào là ảo giác về không gian, ảo giác thời gian, nào là ý thức, vô thức của con người, nào thói quen, nào là trạng thái tâm lý căng thẳng (Stress) trong quá trình chuẩn bị cho chiến đấu của người lính trước các trận đánh. Rồi những vấn đề phức tạp hơn mang tính học thuật của tâm lý học như động cơ chiến đấu, tâm thế sẵn sàng chiến đấu, giáo dục lý tưởng hoài bão của thanh niên-chiến sĩ quân đội v.v…Bài giảng về các tri thức Tâm lý học ứng dụng trong hoạt động quân sự khi đó đã thực sự sới động tâm hồn, gây xúc cảm mãnh liệt cho các cán bộ chính trị quân đội tham dự Lớp tập huấn.

Năm 1977, TSKH. Phạm Minh Hạc lúc đó là trưởng ban Tâm lý học của Viện Khoa học Giáo dục đã có sáng kiến tổ chức lớp bồi dưỡng sau đại học về Tâm lý học cho các cán bộ, nhà khoa học trong cả nước, trong đó có các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy về Tâm lý học trong quân đội. Đây là dịp vô cùng thuận lợi để chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam có điều kiện phát triển. Tham gia lớp học này về phía quân đội có một nhóm các cán bộ giảng dạy Tâm lý học quân sự của nhiều Học viện quân đội tham dự trong đó có tôi. Những tri thức Tâm lý học hiện đại của nền Tâm lý học Liên xô, các lý thuyết Tâm lý học hiện đại của nhiều trường phái từ các học giả phương Tây được TSKH Phạm Minh Hạc, TSKH Hồ Ngọc Đại giới thiệu tại lớp sau đại học này thực sự đã khích lệ các nhà khoa học Tâm lý học quân sự Việt Nam đi sâu vào khai thác, phát hiện, tìm kiếm làm giầu cho tri thức Tâm lý học quân sự nước nhà. Các học viên của lớp học này đã hào hứng được nghe Ông kể về Đại hội Tâm lý học Quốc tế tổ chức tại Paris, được Ông cho xem ảnh chụp tác phẩm Môna Lida của Họa sĩ thiên tài người Ý Leonard de Vinci mà Ông đã chụp tại bảo tàng Louvre (Paris, Pháp) khi Ông tới dự Đại hội. Kể từ những năm sau đó, tại Học viện Chính trị-Quân sự và một số các Học viện, trường sĩ quan trong quân đội đã chính thức có môn học mang tên “Tâm lý học quân sự”. Các tư tưởng hoạt động hình thành tâm lý, ý thức, thói quen, nếp sống… được các cán bộ chính trị đưa vào vận dụng tích cực trong cuộc sống, chiến đấu của các đơn vị quân đội.  Sự đóng góp của TSKH Phạm Minh Hạc cho quân đội có ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm thúc đẩy nhanh chuyên ngành Tâm lý học quân sự được hình thành, đi vào giảng dạy chính thức, tham gia đào tạo có hiệu quả các cán bộ chính trị, quân sự, kỹ thuật, hậu cần của quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công bằng mà nói GS.VS. Phạm Minh Hạc chính là người đã đặt nền móng cho sự xuất hiện của một chuyên ngành Tâm lý học mới ở Việt Nam - chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam.

2. Hội Khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt Nam dưới sự dẫn dắt của GS.VS. Phạm Minh Hạc đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam phát triển, trưởng thành đóng góp công sức to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Năm 1978, chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam đã có Tiến sĩ Tâm lý học quân sự đầu tiên của Quân đội nhân dân ta được đào tạo tại Liên Xô về nước. Đó là Trung tá, TS. Tâm lý học Hoàng Ngọc Phách [9]. Năm 1979, nhóm nghiên cứu Tâm lý học quân sự do Thượng tá Hoàng Linh phụ trách thuộc Tổng Cục Chính trị được điều về Khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự, Học viện Chính trị. Lực lượng nghiên cứu và giảng dạy về Tâm lý học quân sự lúc này như được tiếp thêm sức mạnh mới. Đại tá Hoàng Linh lúc này là Chủ nhiệm Khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự. Tại Học viện Chính trị thời kỳ này có cố vấn quân sự của Liên xô. Tháng 11-1981, tôi với quân hàm Thiếu tá được cử đi nghiên cứu sinh tâm lý học tại Liên xô, bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ chuyên ngành Tâm lý học quân sự tại Học viện Quân chính Lê nin (Liên Xô) vào tháng 11 năm 1985. Trở về nước, tháng 4-1988, tôi được vinh dự đảm nhận trọng trách mới, là Quyền chủ nhiệm Khoa và ngày 9-8-1989 là Trưởng Khoa Tâm lý – Giáo dục quân sự của Học viện Chính trị quân sự. Thời gian này, tại Khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự, hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ cho giảng dạy, đào tạo cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch có sự sôi động đặc biệt. Một luồng không khí mới của nghiên cứu khoa học Tâm lý học phục vụ cho đào tạo cán bộ chính trị xây dựng hình thành nhân cách quân nhân, nhân cách người chiến sĩ “Bộ đội Cụ Hồ”, kỹ năng, kỹ xảo, tài nghệ chiến đấu của người lính, động cơ chiến đấu, rèn luyện tâm thế sẵn sàng, vững vàng chiến đấu, rồi nhân cách, phong cách lãnh đạo của người chỉ huy v.v… theo lý thuyết hoạt động được GS. VS. Phạm Minh Hạc dẫn dắt, thuyết giảng tại các buổi trao đổi làm việc giữa Giáo sư và các nhà nghiên cứu Tâm lý học quân sự thuộc các nhà trường trong toàn quân thời kỳ đó đã thúc đẩy sự phát triển chuyên sâu các tư tưởng tâm lý học quân sự Việt Nam.

Năm 1988 Ban Trù bị vận động thành lập Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam do GS. Phạm Minh Hạc đứng đầu đã tích cực xúc tiến các công việc cần thiết cho việc ra đời của Hội. Tôi cũng vinh dự là một trong các thành viên của Ban Trù bị. Ngày 20-12-1989, tại Quyết định số 371/CT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính Phủ) Hội Tâm lý-Giáo dục học Việt Nam được chính thức thành lập. Ngày 19-4-2002, tại Quyết định số 21-2002/QĐ-BTCCBCP, Hội được đổi tên thành Hội Khoa học Tâm Lý-Giáo dục Việt Nam.

Sự xuất hiện của Hội Khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt Nam (Hội KHTL-GDVN) cùng với sự quan tâm khích lệ, động viên của GS. VS. Phạm Minh Hạc đối với chuyên ngành tâm lý học quân sự Việt Nam tựa như một “cú hích” thúc đẩy các nhà Tâm lý học Quân sự Việt Nam hăng say lao vào nghiên cứu, đưa các tri thức tâm lý học hiện đại ứng dụng vào các hoạt động xây dựng và chiến đấu của quân đội lúc bấy giờ.

Các nhà khoa học tâm lý học quân sự – hội viên của Hội KHTL-GDVN ý thức rõ luận thuyết hoạt động trong tâm lý học mà nhiều lần và ở đâu đó GS. Phạm Minh Hạc đã giảng giải, đó là: i)- Người chiến sĩ cần phải được giáo dục, rèn luyện về chính trị, tư tưởng nhưng như thế chưa đủ. Cùng với rèn luyện về chính trị, tư tưởng, người chiến sĩ cần phải được chăm lo rèn luyện về tâm lý; ii)- Rèn luyện về tâm lý không đồng nhất với rèn luyện về chính trị, tư tưởng. Người chiến sĩ có thể có phẩm chất chính trị, tư tưởng tốt nhưng nếu không được rèn luyện kỹ về tâm lý thì có thể trong những giây phút khó khăn nào đó của tình huống chiến đấu, người chiến sĩ ấy có thể bỏ chạy, thoái thác nhiệm vụ. Đây cũng là điều bình thường, vì đấy là quy luật của tâm lý của con người; iii)-Rèn luyện về tâm lý là rèn luyện nâng cao tính thích nghi, thích ứng của con người trước các điều kiện tác động của chiến đấu hiện đại; rèn luyện các phẩm chất nhân cách cần có của các quân nhân; rèn luyện tính kỷ luật của các quân nhân, các phẩm chất sẵn sàng và vững vàng của các quá trình tâm lý, đặc biệt là các phẩm chất ý chí của người chiến sĩ; rèn luyện tâm thế sẵn sàng chiến đấu; rèn luyện tính vững vàng tâm lý trong các hoàn cảnh căng thẳng của chiến đấu v.v…; iv)-Rèn luyện về tâm lý nhất thiết phải thông qua hoạt động thực tiễn, trong các hoàn cảnh điều kiện chiến đấu như thật để người chiến sĩ tự bộc lộ, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo chiến đấu, sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm chiến đấu của chính mình.

 GS. Phạm Minh Hạc cũng đã nhiều lần có mặt tại các Hội thảo khoa học do Hội Khoa học Tâm lý-Giáo dục quân đội tổ chức, phát biểu chỉ đạo, nói chuyện, chỉ dẫn, gợi ý các đề tài, các vấn đề nghiên cứu, giảng bài cho các hội viên Tâm lý- giáo dục quân đội.

 

 

 

Các sách, giáo trình về Tâm lý học quân sự xuất hiện trên văn đàn và trong thư viện của các nhà trường trong toàn quân thời kỳ này ngày càng nhiều đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cán bộ sĩ quan quân đội. Để có được thành quả này, không thể không nói đến công lao của người Thầy – GS.VS. Phạm Minh Hạc. Chính Ông – người đã âm thầm góp phần đào tạo cả một đội ngũ các nhà tâm lý học quân sự của quân đội nhân dân Việt Nam. Tác giả bài viết này xin dẫn ra một số sách đã xuất bản trong nhiều năm ở thời kỳ này để làm minh chứng:

 

 

    

 

 

 

  ◊ Năm 1981, cuốn “Tâm lý học quân sự”, Học viện chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ấn hành. Đây được xem là cuốn sách đầu tiên về Tâm lý học quân sự do Đại tá Hoàng Linh [10], chủ nhiệm khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự, Học viện Chính trị chủ biên. Sách gồm 4 phần, 19 chương, 485 trang. Sách ra đời đã góp phần to lớn nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch tại Học viện Chính trị khi đó.

 

 

 

 

 

 

 

◊ Năm 1989, cuốn giáo trình “Tâm lý học quân sự” do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản. Đây là Giáo trình Tâm lý học quân sự được sử dụng rộng rãi tại các nhà trường trong toàn quân thời kỳ này. Chủ biên sách là Đại tá, Phó Giáo sư Hoàng Linh. Sách có 5 phần, 22 chương, 501 trang.

 

 

 

 

 

 

 

 

◊ Cuốn Giáo trình “Tâm lý học quân sự “, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1998 là một bước tiến mới về chất các tri thức về Tâm lý học được ứng dụng trong lĩnh vực quân sự, trong đào tạo chính quy các cán bộ chính trị các cấp trong quân đội tại các nhà trường quân đội. Sách gồm 4 phần, 36 chương, 692 trang do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Phú chủ biên.

 

 

      

 

◊ Cuốn sách “Tâm lý học- Những cơ sở lý luận và phương pháp luận”, Học viện Chính trị-Quân sự ấn hành năm 1984. Đây là tài liệu dịch từ các bài báo, tạp chí của các nhà Tâm lý học hàng đầu có tên tuổi của nền Tâm lý học Liên Xô như X.L. Rubinxtein; A.N. Leonchiev; G.X. Coxchuc; B.F. Lomov; A.V. Petơropxki; E.V. Xolokhova. GS.VS. Phạm Minh Hạc là một trong 4 tác giả tham gia dịch thuật cuốn sách này. Dẫn ra điều này, chúng tôi muốn tiếp tục khẳng định tầm thuyết phục, ảnh hưởng của Giáo sư, uy tín khoa học, sự gắn bó, quan tâm chăm lo cho sự phát triển của Tâm lý học nước nhà nói chung, tâm lý học quân sự Việt Nam nói riêng. Sách dày 308 trang. Cuốn sách này sau đó và cả cho đến ngày hôm nay đã trở thành tài liệu quý cho các nhà Tâm lý học Việt Nam và cho tất cả những ai quan tâm đến nghiên cứu tâm lý học, tự trau dồi lý luận và phương pháp luận cho học tập và nghiên cứu tâm lý học.

 

 

 

 

 

 

 

 

◊ Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kỷ luật quân sự” của tác giả Nguyễn Ngọc Phú, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1997, 132 trang, 5 chương. Đây được xem là một nghiên cứu chuyên sâu về tính kỷ luật của nhân cách quân nhân. Để là người có kỷ luật thì bản thân mỗi người phải được rèn và phải tự rèn “tính kỷ luật” của chính mình. Tính kỷ luật chính là một phẩm chất quan trọng của nhân cách quân nhân.

 

 


 

 

 

 

 

◊ Năm 1998, trên văn đàn sách về Tâm lý học có cuốn “Tâm lý học trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng”. Sách do Nhà xuất bản quân đội ấn hành, 388 trang. Ngoài phần mở đầu là bài viết điểm lại hơn 20 năm nền Tâm lý học quân sự Việt Nam trưởng thành và phát triển, sách đã công bố các nghiên cứu về Tâm lý học nhân cách người sĩ quan quân đội; Tâm lý học nhân cách hạ sĩ quan, chiến sĩ; Tâm lý học về các lĩnh vực hoạt động quân sự; Tâm lý học các quân, binh chủng (không quân; binh chủng tăng, thiết giáp; bộ đội biên phòng; bộ đội đặc công; cán bộ chiến sĩ ngành Y quân đội …); Các vấn đề về tâm lý học  sư phạm quân sự; Các vấn đề về phương pháp nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn của tâm lý học quân sự.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

◊ Cuốn “Tâm lý học sư phạm quân sự” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2001 gồm 11 chương, 272 trang là giáo trình giảng dạy cho các lớp đào tạo sư phạm tại Học viện Chính trị-quân sự và các Học viện, trường sĩ quan trong toàn quân, nơi có đào tạo giáo viên chuyên ngành của các quân, binh chủng.

 

 

 

 

 

◊ Cuốn “Những vấn đề tâm lý trong hoạt động của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở”. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 2006, 352 trang. Cuốn sách gồm 33 nghiên cứu về các vấn đề khác nhau trong hoạt động của cán bộ, chiến sĩ được giới thiệu trong 02 phần: i) Phần một – Những vấn đề tâm lý trong các mặt hoạt động của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở và ii) Phần hai -Rèn luyện và phát triển nhân cách người cán bộ chính trị. Sách do Đại tá, PGS.TS. Ngô Minh Tuấn chủ biên.

 

 

 Nói đến phát triển của chuyên ngành Tâm lý học quân sự dưới ảnh hưởng, chỉ đạo, định hướng, dẫn dắt của GS.VS. Phạm Minh Hạc, không thể không kể tới các luận án tiến sĩ Tâm lý học trong gần 60 năm qua. Cho đến nay đã có vài chục luận án Tiến sĩ Tâm lý học chuyên ngành Tâm lý học quân sự đã được bảo vệ thành công cả ở trong nước và nước ngoài. Các luận án được thực hiện ở hầu khắp các Quân, Binh chủng trên các đối tượng là người chỉ huy, cán bộ chính trị các cấp Trung, Sư đoàn, các chiến sĩ của các quân, binh chủng. Nhiều vấn đề tâm lý liên quan đến hoạt động giáo dục, huấn luyện và chiến đấu, tu luyện các phẩm chất nhân cách, phong cách lãnh đạo của người chỉ huy, kỹ năng, kỹ xảo chiến đấu, phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, kỷ luật, thói quen nếp sống của các chiến sĩ thuộc các Quân, Binh chủng đã được đề cập. Xin dẫn ra đây một số luận án Tiến sĩ Tâm lý học, chuyên ngành Tâm lý học quân sự đã được bảo vệ thành công từ năm 1995 đến năm 2004 tại các nhà trường quân sự để làm minhn chứng:

-“Cơ sở tâm lý của hạ quyết tâm chiến đấu của người chỉ huy sư đoàn trưởng”, NCS Lê Anh Chiến, Học viện Quốc phòng, Hà Nội 1995.

-“Tính kỷ luật quân sự của tập thể quân sự bộ đội đặc công”,  NCS Đinh Hùng Tuấn, Học Viện Chính trị quân sự, Hà Nội 1996.

-“Cơ sở tâm lý học của mối quan hệ qua lại giữa cán bộ và chiến sĩ trên tàu Hải quân trong tình hình hiện nay”, NCS Ngô Minh Tuấn, Học viện Chính trị quân sự, Hà nội 2000.

-“Vấn đề giao tiếp của bác sĩ quân y với người bệnh trong quá trình khám, chữa bệnh”, NCS Nguyễn Thị Thanh Hà, Học Viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2000.

-“Cơ sở tâm lý học của việc hình thành xu hướng nghề nghiệp quân sự cho học viên sĩ quan tăng, thiết giáp trong điều kiện hiện nay” NCS Hoàng Văn Thanh, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2000.

-“Cơ sở tâm lý của hình thành và phát triển nhân cách người bác sĩ quân y”, NCS Nguyễn Sinh Phúc, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2000.

-“Năng lực chuyên biệt của cán bộ Bộ đội biên phòng làm công tác quản lý kiểm soát ở cửa khẩu”, NCS Nguyễn Văn Túy, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2000.

-“Nghiên cứu phong cách lãnh đạo, quản lý của người Trung đoàn trưởng quân đội nhân dân Việt Nam”, NCS Phạm Đức Tú, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2001.

-“Những điều kiện tâm lý nâng cao chất lượng thực hành bay của học viên đào tạo phi công phản lực chiến đấu”, NCS Nguyễn Văn Giao, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2002.

-“Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh sát an ninh và phương pháp đánh giá chúng”, NCS Võ Sỹ Lục, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội 2002.

-“Xung đột tâm lý trong các tập thể quân sự”, NCS Nguyễn Văn Tuân, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2002.

-“Nghiên cứu tuyển chọn tâm lý đầu vào đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam”, NCS Trương Quang Học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2004, v.v…

Cho đến nay, đã có nhiều nhà Tâm lý học quân sự Việt Nam được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư. Các nhà khoa học này cùng với đông đảo đội ngũ Tiến sĩ, Thạc sĩ, cử nhân Tâm lý học quân sự đang công tác ở các Học viện, trường sĩ quan quân đội đã ngày đêm đóng góp trí tuệ cho xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, góp phần to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

 

                                             *   *   *

Mọi sự ở đời đều có cội nguồn của nó. Không có sự khởi đầu mạnh mẽ, quyết tâm, dám vượt khó, dám làm của những người đi trước, không có sự dìu dắt, dày công vun trồng của những người đã đặt nền móng cho chuyên ngành Tâm lý học quân sự thì không thể có chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam lớn mạnh như ngày hôm nay. Chúng tôi biết ơn GS.VS. Phạm Minh Hạc, Đại tá PGS. Hoàng Linh và các cộng sự của các ông trong nhiều năm qua đã trải qua biết bao gian nan, vất vả quyết tâm cho ra đời chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam. Không có các Ông, chắc chắn chúng ta đã không có sự lớn mạnh của chuyên ngành Tâm lý học quân sự Việt Nam như ngày hôm nay.

Chú dẫn:

1. GS.VS. Phạm Minh Hạc thời gian này đang là Nghiên cứu sinh Tâm lý học tại trường Đại học Tổng hợp Lomonosov, Mátxcơva, Liên Xô.

2. Trung tá Hoàng Linh, Trưởng phòng nghiên cứu khoa học, Học viện Chính trị(1964-1970); Trưởng Phòng nghiên cứu Tâm lý học quân sự, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1970-1978).

3. Tham gia trao đổi học thuật về xây dựng nền Tâm lý học quân sự Việt Nam thời gian này với nhà Tâm lý học Phạm Minh Hạc có Trung tá Hoàng Linh (sau này là Đại tá, Trưởng Khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự , Học viện Chính trị-Quân sự), Trung tá Phạm Phú Nhuận, Trung tá Long, Trung tá Trần Quốc Hanh là các cán bộ thuộc nhóm nghiên cứu khoa học Tâm lý học thuộc Cục Tuyên huấn, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

4. Địa danh nơi sơ tán của Cục Tuyên huấn, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thời ký đó là một làng quê thuộc Huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.

5. Ông Phạm Minh Hạc bảo vệ thành công Luận án Phó tiến sĩ Tâm lý học tại trường Đại học Tổng hợp Lomonosov (Liên bang Nga) năm 1971.

6. Lời nói đầu của cuốn sách “Tâm lý học”, tr.12-13, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974.

7. Tên cuốn sách là Tâm lý học, nhưng nội dung bên trong đều viết về Tâm lý học quân sự, bàn về hoạt động quân sự của người chiến sĩ, các quá trình tâm lý diễn ra trong hoạt động chiến đấu của người chiến sĩ, thế giới quan, lý tưởng cá nhân của các quân nhân, năng lực hoạt động quân sự của các quân nhân v.v…

8. Học viện Hậu cần, lúc đó và hiện nay vẫn tọa lạc ở Gia Thượng, Gia Lâm, Hà Nội.

9. Trung tá TS.Tâm lý học Hoàng Ngọc Phách, Phó chủ nhiệm Khoa Tâm lý-Giáo dục quân sự, Học viện Chính trị quân sự (1979-1987)

10. Đại tá Hoàng Linh là người thường xuyên được GS.VS. Phạm Minh Hạc trao đổi, làm việc về chuyên môn trong nhiều năm như các dẫn liệu đã nêu ra ở phần đầu bài viết này

 

GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký

Hội Khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt Nam

 

 

Ý kiến bạn đọc
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.