1. Nghiên cứu & kinh nghiệm
  2. >
  3. Giáo dục Việt Nam

GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - HƯỚNG ĐI CHIẾN LƯỢC TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

08:48 | 01/07/2025
aA

 

                                                         Bùi Trần Công

                             PGĐ Trung tâm đào tạo Bồi dưỡng IECD

 

 

                                                       

I. Mở đầu

Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, Việt Nam đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ, bước vào một giai đoạn phát triển mới với khát vọng hùng cường và hội nhập sâu rộng. Đây chính là thời kỳ “vươn mình” – khi đất nước thoát khỏi hoàn cảnh nghèo nàn, vươn lên xây dựng một xã hội hiện đại, dân chủ, công bằng, văn minh, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững. Bối cảnh này đòi hỏi mọi lĩnh vực phải thay đổi để thích ứng, trong đó, giáo dục đóng vai trò then chốt và quyết định.

Giáo dục Việt Nam không thể đi sau, càng không thể dậm chân tại chỗ, mà cần tiên phong trong đổi mới tư duy, mô hình, phương pháp và công nghệ để đào tạo ra những con người mới, có năng lực tư duy độc lập, khả năng hội nhập toàn cầu, có tinh thần yêu nước, nhân văn và khát vọng cống hiến. Việc xây dựng một nền giáo dục hiện đại, khai phóng, công bằng và hiệu quả là con đường tất yếu để hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Chuyên đề này nhằm làm rõ những đặc điểm của thời đại vươn mình, phân tích vai trò của giáo dục trong bối cảnh mới, đánh giá những thành tựu và hạn chế của nền giáo dục hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng đổi mới cần thiết để giáo dục Việt Nam có thể phát triển bền vững, bắt nhịp với xu thế thời đại và góp phần đưa đất nước vươn cao.

 

2.Nội dung

2.1.Khái quát về thời đại vươn mình của dân tộc Việt Nam

Khái niệm “thời đại vươn mình” phản ánh một giai đoạn phát triển đặc biệt trong tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa của Việt Nam – khi đất nước không chỉ phục hồi sau chiến tranh và vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, mà còn từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế.

Trong thời kỳ này, Việt Nam hội tụ nhiều yếu tố mang tính bước ngoặt, thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:

- Tăng trưởng kinh tế ổn định và hướng tới phát triển bền vững: Tốc độ tăng trưởng GDP luôn duy trì ở mức tích cực nhiều năm qua đều dạt từ 6-7%, năm 2025 phấn đấu đạt mức 8% và những năm tiếp theo đạt hai con số, Việt Nam đã và đang nằm trong nhóm các quốc gia có tiềm năng phát triển nhanh nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Định hướng chiến lược đến năm 2045 là trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao.

- Hội nhập quốc tế sâu rộng: Việt Nam đã ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), tham gia nhiều tổ chức quốc tế, góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, và tăng cường vị thế quốc gia trên toàn cầu.

- Chuyển đổi số và công nghiệp 4.0: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với chiến lược chuyển đổi số quốc gia đang tạo ra những cơ hội đột phá, mở đường cho sự phát triển nhanh chóng trong các lĩnh vực then chốt như kinh tế số, giáo dục số, chính phủ số, và xã hội số.

- Phát triển con người là trung tâm: Nhà nước và xã hội ngày càng đề cao vai trò của con người – không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn là chủ thể sáng tạo và kiến tạo sự phát triển. Giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa, và đổi mới sáng tạo được xem là trụ cột của phát triển.

- Khát vọng dân tộc và bản lĩnh Việt Nam: Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế và vị thế quốc tế, tinh thần yêu nước, khát vọng vươn lên, và sự đồng thuận xã hội ngày càng mạnh mẽ, tạo thành động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc Việt Nam bứt phá.

Như vậy, thời đại vươn mình là giai đoạn mang tính bước ngoặt, mở ra cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, đòi hỏi mọi lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục, phải được đổi mới toàn diện để đồng hành và dẫn dắt công cuộc phát triển quốc gia.

 

2.2.Vai trò quyết định của giáo dục trong thời đại mới

Trong thời đại vươn mình, giáo dục không chỉ là nền tảng cho phát triển bền vững, mà còn là động lực trung tâm tạo ra sự chuyển biến đột phá về chất lượng nguồn nhân lực, tri thức và văn hóa quốc gia. Vai trò quyết định của giáo dục thể hiện trên một số phương diện cơ bản sau:

- Giáo dục là chìa khóa mở ra cánh cửa hội nhập và cạnh tranh quốc tế.

 Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quốc gia nào có hệ thống giáo dục tiên tiến sẽ có lợi thế về nhân lực chất lượng cao. Ví dụ, việc Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại như CPTPP hay EVFTA đòi hỏi nguồn lao động không chỉ có kỹ năng nghề mà còn phải thông thạo ngoại ngữ, kỹ năng số và hiểu biết pháp lý quốc tế. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua cải cách giáo dục toàn diện bởi vì các lý do sau:

Thứ nhất, giáo dục nâng cao năng lực con người – yếu tố cốt lõi của hội nhập toàn cầu. Hội nhập quốc tế yêu cầu nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng, tư duy toàn cầu. Giáo dục giúp con người phát triển toàn diện về kiến thức, kỹ năng, tư duy phản biện, ngoại ngữ, hiểu biết văn hóa – tất cả đều là điều kiện để người học thích nghi với môi trường làm việc và sinh sống quốc tế. Ví dụ: Lao động Việt Nam muốn làm việc tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức… đều cần thông qua các chương trình đào tạo bài bản về chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng mềm.

Thứ hai, giáo dục là nền tảng của đổi mới sáng tạo – động lực cạnh tranh quốc gia. Trong thời đại kinh tế tri thức và chuyển đổi số, sự cạnh tranh quốc tế không chỉ dựa vào tài nguyên, mà chủ yếu dựa vào chất lượng nhân lực và năng lực đổi mới sáng tạo. Những quốc gia có nền giáo dục tiên tiến thường đi đầu trong khoa học – công nghệ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, trí tuệ nhân tạo, công nghệ xanh…

Ví dụ: Israel, Phần Lan hay Hàn Quốc là những quốc gia không có nhiều tài nguyên, nhưng nhờ đầu tư mạnh cho giáo dục, họ trở thành trung tâm đổi mới của thế giới.

Thứ ba, giáo dục giúp xây dựng bản sắc và năng lực cạnh tranh mềm. Khi bước vào hội nhập, quốc gia không chỉ cạnh tranh bằng sản phẩm, mà còn bằng giá trị văn hóa, con người, thương hiệu quốc gia. Một hệ thống giáo dục tốt sẽ đào tạo ra công dân có ý thức bản sắc dân tộc, vừa hiểu biết quốc tế, có thể trở thành đại sứ cho quốc gia mình trên toàn cầu. Ví dụ: Du học sinh Việt Nam thành công ở nước ngoài vừa là nguồn lực, vừa là cầu nối văn hóa – kinh tế giữa Việt Nam và thế giới.

Thứ tư, giáo dục là con đường để rút ngắn khoảng cách phát triển. Các quốc gia chậm phát triển hay đang phát triển như Việt Nam cần giáo dục để “đuổi kịp” trình độ thế giới. Giáo dục không chỉ dạy kỹ năng, mà còn thay đổi tư duy, nâng cao khát vọng, khơi dậy tinh thần dân tộc hiện đại. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những ai có nền giáo dục vững chắc sẽ nhanh chóng bắt nhịp với xu hướng toàn cầu, còn ai tụt hậu về giáo dục sẽ bị bỏ lại phía sau.

Thứ năm, giáo dục đóng vai trò trong ngoại giao và hợp tác quốc tế. Hợp tác giáo dục là một trong những hình thức ngoại giao mềm hiệu quả nhất, vì qua các chương trình trao đổi sinh viên, nghiên cứu chung, viện trợ giáo dục…Một hệ thống giáo dục mở, hiện đại sẽ dễ dàng thu hút sinh viên quốc tế, chuyên gia quốc tế, tăng uy tín quốc gia.

Trong thời đại mà tri thức, đổi mới và hợp tác toàn cầu là trung tâm phát triển, giáo dục thực sự là chìa khóa vàng để mở ra cánh cửa hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam muốn “vươn mình mạnh mẽ”, thì trước hết phải xây dựng được một nền giáo dục mở, hiện đại, chất lượng cao, lấy con người làm trung tâm phát triển bền vững.

- Giáo dục góp phần hình thành công dân toàn cầu mang bản sắc Việt Nam. Trong thời đại số và kết nối toàn cầu, giáo dục cần đào tạo nên những con người vừa có năng lực toàn cầu – sáng tạo, tư duy phản biện, làm việc nhóm, đổi mới – vừa giữ được cốt lõi giá trị văn hóa dân tộc:

  1. Công dân toàn cầu, đây là yêu cầu bắt buộc của thời đại hội nhập. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công dân toàn cầu là những người vừa có kiến thức và kỹ năng đáp ứng yêu cầu quốc tế vừa có ngoại ngữ, công nghệ, tư duy phản biện, giao tiếp liên văn hóa...Có ý thức trách nhiệm với các vấn đề toàn cầu: biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, bình đẳng giới, hòa bình và nhân quyền... Có khả năng thích ứng linh hoạt, học tập suốt đời và làm việc trong môi trường quốc tế. Giáo dục chính là con đường chủ đạo để hình thành lớp người như vậy, thông qua nội dung, phương pháp và triết lý giáo dục tiên tiến.
  2. Bản sắc Việt Nam là nền tảng tạo nên giá trị khác biệt. Trong quá trình hội nhập, nếu không giữ gìn bản sắc dân tộc, con người dễ bị “hòa tan”, mất gốc văn hóa. Giáo dục có trách nhiệm nuôi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, đạo lý truyền thống, tiếng Việt, lịch sử, văn hóa Việt Nam cho học sinh. Công dân toàn cầu người Việt không chỉ giỏi hội nhập, mà còn phải "là chính mình", mang theo giá trị Việt để lan tỏa ra thế giới. Một kỹ sư người Việt làm việc ở Nhật Bản, một sinh viên Việt Nam học tập ở Đức... đều có thể là đại diện tiêu biểu của Việt Nam nếu họ hội nhập tốt mà vẫn giữ vững bản sắc dân tộc.
  1. Giáo dục tích hợp vừa toàn cầu hóa nhưng không tách rời dân tộc hóa. Nội dung giáo dục cần tích hợp giữa kiến thức toàn cầu (khoa học công nghệ, kinh tế quốc tế, công dân toàn cầu...) với giá trị dân tộc (lịch sử, văn hóa, đạo đức, tiếng Việt...). Phương pháp giáo dục hiện đại giúp học sinh có tư duy phản biện và sáng tạo; Biết tôn trọng sự khác biệt văn hóa; Có bản lĩnh, tự tin và lòng tự hào dân tộc. Như vậy, giáo dục sẽ là chiếc cầu nối giữa quá khứ và tương lai, giữa dân tộc và nhân loại.
  2. Vai trò chiến lược của giáo dục Việt Nam trong hiện thực hóa mục tiêu này. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông (CTGDPT 2018) đã thể hiện tư duy tích hợp này, tăng cường năng lực, phẩm chất công dân, đưa giáo dục địa phương vào chương trình học và đẩy mạnh giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng hội nhập.

Trong thời đại toàn cầu hóa, giáo dục Việt Nam không chỉ đào tạo những con người giỏi chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ, làm chủ công nghệ mà còn phải giữ được “hồn Việt” trong mỗi công dân toàn cầu. Chính giáo dục là lực lượng trung tâm để hình thành “con người Việt Nam thời đại mới” – vừa hội nhập quốc tế sâu rộng, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.

- Giáo dục là động lực của đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học công nghệ. Các quốc gia phát triển đều lấy giáo dục làm nền tảng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Tại Việt Nam, sự phát triển của các mô hình đại học khởi nghiệp, trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong các trường đại học là minh chứng cho xu thế này. Chẳng hạn, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội hay Đại học Quốc gia TP.HCM đang thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu ứng dụng kết nối với doanh nghiệp. Rõ ràng vai trò của giáo dục rất lớn trong thời kỳ mới.

  • Giáo dục là nơi khơi nguồn tư duy đổi mới và sáng tạo. Đổi mới sáng tạo không thể nảy sinh trong một môi trường giáo dục khuôn mẫu, áp đặt, mà chỉ có thể hình thành khi con người được rèn luyện tư duy phản biện, khả năng đặt câu hỏi, khám phá và chấp nhận rủi ro. Một nền giáo dục chất lượng cao giúp: Khơi dậy trí tò mò và đam mê học hỏi;  Phát triển tư duy độc lập và giải quyết vấn đề; Nuôi dưỡng khả năng sáng tạo và dám thử nghiệm. Đây chính là những nền tảng quan trọng của đổi mới sáng tạo trong mọi lĩnh vực từ khoa học, công nghệ đến kinh doanh, văn hóa, nghệ thuật.
  • Giáo dục cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho khoa học và công nghệ. Mọi bước tiến của KHCN đều cần con người có trình độ, kỹ năng, ý thức học tập suốt đời – mà chỉ giáo dục mới có thể chuẩn bị được. Từ trường phổ thông đến đại học, cao học và đào tạo nghề, giáo dục cung cấp các Kỹ sư, nhà khoa học, chuyên gia công nghệ hay các  Nhà nghiên cứu đổi mới, doanh nhân khởi nghiệp.
  • Đặc biệt, giáo dục STEM (Khoa học – Công nghệ – Kỹ thuật – Toán học) là nền tảng để phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn. Quốc gia nào có hệ thống giáo dục tốt sẽ có lợi thế trong “cuộc đua” đổi mới công nghệ.
  • Giáo dục tạo ra hệ sinh thái tri thức hỗ trợ KHCN. Các trường đại học, viện nghiên cứu là nơi phát triển tri thức mới, là trung tâm của sáng chế, phát minh, chuyển giao công nghệ. Khi giáo dục kết nối với doanh nghiệp và xã hội, sẽ hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm: Nghiên cứu – Thử nghiệm – Ứng dụng; Đào tạo – Khởi nghiệp – Sản xuất.
  • Sự phát triển của “trường đại học khởi nghiệp”, “đại học đổi mới sáng tạo” đang trở thành xu hướng tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Mỹ, Phần Lan, và bắt đầu manh nha tại Việt Nam.
  • Vai trò cụ thể của giáo dục Việt Nam hiện nay là thực hiện theo Nghị quyết 29-NQ/TW và các chính sách mới của Việt Nam: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển nhân lực chất lượng cao, phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo.” Một số chương trình cụ thể là đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, thúc đẩy dạy học tích hợp, liên môn, tăng cường giáo dục STEM, xây dựng các đại học theo mô hình nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều thách thức như cơ chế còn cứng nhắc, thiếu kết nối giữa nhà trường, doanh nghiệp, năng lực sáng tạo chưa thực sự phát huy.

Trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giáo dục không chỉ là nơi truyền thụ tri thức, mà còn phải là bệ phóng cho đổi mới sáng tạo, là nền móng cho sự phát triển khoa học công nghệ. Một quốc gia muốn phát triển bền vững và có vị thế trên bản đồ công nghệ thế giới, trước hết phải xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, khai phóng, nuôi dưỡng trí tuệ và đam mê sáng tạo của thế hệ trẻ.

- Giáo dục góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển bền vững. Giáo dục không chỉ đào tạo nghề nghiệp mà còn giúp nâng cao nhận thức công dân, thúc đẩy bình đẳng giới, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và xây dựng xã hội học tập. Chương trình giáo dục phổ thông mới của Việt Nam đã tích hợp các nội dung về phát triển bền vững, giáo dục môi trường, kỹ năng sống, qua đó góp phần nuôi dưỡng thế hệ công dân có trách nhiệm. Cụ thể:

- Giáo dục nâng cao nhận thức, tạo nền tảng giải quyết các vấn đề xã hội. Các vấn đề như nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng, tệ nạn xã hội, bạo lực, phân biệt đối xử... đều có nguyên nhân sâu xa từ sự thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng và hạn chế về cơ hội. Giáo dục giúp nâng cao dân trí, phát triển tư duy phản biện và ý thức công dân, trang bị kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, giao tiếp và giải quyết xung đột, thay đổi thái độ sống, khuyến khích lối sống có trách nhiệm, tôn trọng pháp luật và người khác. Nhờ đó, giáo dục góp phần giảm thiểu tội phạm, ma túy, bạo lực học đường, phân biệt giới tính và các hình thức kỳ thị

- Giáo dục là trụ cột của phát triển bền vững. Theo UNESCO, giáo dục là 1 trong 17 Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) và là chìa khóa để thực hiện tất cả các mục tiêu còn lại. Phát triển bền vững đòi hỏi con người phải có kiến thức, kỹ năng và thái độ đúng đắn để bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên, chung sống hòa bình và công bằng xã hội. Giáo dục vì sự phát triển bền vững (ESD) hướng tới giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, tiêu dùng xanh, phát triển năng lượng tái tạo, giáo dục bình đẳng giới, hòa nhập xã hội, sống nhân ái và có trách nhiệm toàn cầu, thúc đẩy học tập suốt đời, công bằng trong tiếp cận giáo dục và cơ hội phát triển. Chính con người có tri thức, đạo đức, kỹ năng mới là nền tảng vững chắc cho sự phát triển không gây tổn hại đến thế hệ tương lai.

- Giáo dục thúc đẩy công bằng xã hội và giảm bất bình đẳng. Giáo dục mở ra cơ hội vượt thoát khỏi nghèo đói, nhất là với các nhóm yếu thế như phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em vùng sâu vùng xa. Một nền giáo dục bao trùm, công bằng và chất lượng sẽ rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, góp phần xây dựng xã hội học tập, cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, giảm thiểu các hệ quả tiêu cực của phân hóa xã hội.

- Giáo dục nuôi dưỡng tinh thần công dân và trách nhiệm xã hội. Giáo dục công dân, đạo đức, kỹ năng sống và trải nghiệm sẽ hình thành tinh thần tự chủ, ý thức cộng đồng và lòng nhân ái, khả năng hợp tác, tôn trọng sự khác biệt và giải quyết vấn đề.

 - Giáo dục không chỉ là công cụ phát triển kinh tế mà còn là chìa khóa giải quyết các thách thức xã hội và đảm bảo phát triển bền vững. Một hệ thống giáo dục nhân văn, bao trùm và đổi mới sẽ đào tạo ra những công dân có tri thức, đạo đức và trách nhiệm, biết sống hài hòa với môi trường và cộng đồng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của quốc gia và nhân loại.

- Giáo dục là biểu hiện sức mạnh mềm của mỗi quốc gia. Một hệ thống giáo dục tiên tiến sẽ thu hút sinh viên quốc tế, thúc đẩy giao lưu học thuật và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Việc ngày càng nhiều học sinh, sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam hoặc hợp tác nghiên cứu với các cơ sở giáo dục Việt Nam cho thấy giáo dục đang trở thành một trụ cột của ngoại giao văn hóa. Bời vì:

  • Sức mạnh mềm, khái niệm và mối liên hệ với giáo dục. Sức mạnh mềm (soft power) là khả năng thuyết phục, lan tỏa và gây ảnh hưởng thông qua giá trị văn hóa, tri thức, hình ảnh quốc gia, mô hình phát triển, đạo đức, lối sống... thay vì sử dụng vũ lực hoặc ép buộc. Giáo dục, với tư cách là lĩnh vực truyền bá tri thức, tư tưởng, văn hóa và đạo đức, chính là một trong những biểu hiện nổi bật và bền vững nhất của sức mạnh mềm.
  • Giáo dục nâng cao hình ảnh và uy tín quốc gia. Một nền giáo dục chất lượng cao, sáng tạo và nhân văn sẽ tạo ra ấn tượng mạnh mẽ trên trường quốc tế thu hút du học sinh quốc tế đến học tập, có nhiều trường đại học nằm trong bảng xếp hạng quốc tế, cử nhân, tiến sĩ, nhà khoa học của quốc gia đó có đóng góp nổi bật trong nghiên cứu và ứng dụng toàn cầu.
  • Ví dụ: Phần Lan nổi tiếng toàn cầu nhờ vào mô hình giáo dục nhân bản và chất lượng cao; Hàn Quốc, Singapore trở thành hình mẫu châu Á nhờ vào chiến lược “sức mạnh mềm giáo dục” để khẳng định năng lực dân tộc và thu hút nhân tài.
  • Giáo dục truyền bá hệ giá trị, tư tưởng, văn hóa quốc gia ra thế giới. Thông qua giáo dục, quốc gia có thể xuất khẩu tri thức, phương pháp giáo dục, ngôn ngữ và tư tưởng: Chương trình dạy tiếng Việt ở nước ngoài; Học sinh Việt Nam đạt giải cao tại các kỳ thi quốc tế; Giáo sư, học giả Việt Nam giảng dạy ở các đại học quốc tế.
  • Đây là cách Việt Nam xây dựng hình ảnh một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, gắn với tinh thần nhân văn và phát triển bền vững.
  • Giáo dục là cầu nối thúc đẩy đối thoại và hợp tác quốc tế. Giáo dục giúp các quốc gia xây dựng niềm tin, tăng cường hiểu biết và hợp tác thông qua trao đổi sinh viên, học giả, nghiên cứu chung, xây dựng các trung tâm Việt Nam học ở nước ngoài và tiếp nhận các chương trình giáo dục quốc tế tại Việt Nam.
  • Đây là cách “ngoại giao giáo dục” vận hành âm thầm nhưng sâu rộng, giúp nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của đất nước.
  • Vai trò chiến lược của giáo dục Việt Nam trong xây dựng sức mạnh mềm. Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế qua giáo dục: Tăng cường hợp tác giáo dục quốc tế; Đổi mới chương trình theo chuẩn quốc tế, hội nhập sâu rộng; Phát triển các trường đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, cần đầu tư chiến lược để giáo dục trở thành một thương hiệu quốc gia, gắn với triết lý giáo dục riêng của dân tộc Việt Nam.

Trong thế giới ngày nay, nơi cạnh tranh không chỉ dựa trên vũ khí hay kinh tế, mà còn dựa trên ảnh hưởng văn hóa và tri thức, giáo dục chính là biểu tượng và công cụ cốt lõi của sức mạnh mềm quốc gia. Một nền giáo dục mạnh mẽ, khai phóng và có bản sắc sẽ là “tấm hộ chiếu mềm” đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới một cách bền vững và sâu sắc nhất

Tóm lại, trong thời đại vươn mình, giáo dục chính là “xương sống” của sự phát triển quốc gia. Muốn đất nước vươn cao, giáo dục phải đi trước một bước, đóng vai trò là “ngọn lửa khai sáng” dẫn dắt dân tộc vượt qua thách thức và nắm bắt thời cơ.

 

2.3.Vài nét về thực trạng giáo dục Việt Nam: Thành tựu và thách thức

1. Thành tựu:

           Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học;

           Tự chủ đại học ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục phát huy sáng tạo;

           Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19;

            Chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục từng bước được nâng cao;

            Học sinh Việt Nam đạt thành tích cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế, khẳng định trí tuệ Việt Nam trên đấu trường toàn cầu.

2. Thách thức:

          Việc dạy học còn nặng tính nhồi nhét kiến thức, chạy theo thành tích và thi cử;

           Sự chênh lệch lớn trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa;

           Công tác giáo dục người lớn, giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời chưa được quan tâm đúng mức;

            Việc ứng dụng công nghệ số vào giáo dục còn mang tính hình thức, thiếu tính hệ thống và đồng bộ.

2.4.Giáo dục Việt Nam cần đổi mới như thế nào trong thời đại vươn mình

Thời đại vươn mình đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Không thể tiếp tục lối giáo dục cũ nặng tính truyền thụ, chạy theo thi cử, giáo dục trong thời đại mới phải mở ra cánh cửa cho khai phóng tư duy, phát triển con người toàn diện, hội nhập quốc tế nhưng vẫn gìn giữ bản sắc dân tộc. Để làm được điều đó, cần tập trung vào những định hướng đổi mới căn bản sau:

- Đổi mới từ tư duy giáo dục: Cần chuyển mạnh từ tư duy “dạy chữ” sang “dạy người”, từ “học vì thi” sang “học để làm người, học để sống và làm việc một cách sáng tạo và nhân văn”. Đây là sự thay đổi về triết lý giáo dục, xác định rõ mục tiêu giáo dục không chỉ là kiến thức mà còn là đạo đức, nhân cách, năng lực và khát vọng.

- Đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo hướng tinh gọn, linh hoạt, gắn với thực tiễn: Các chương trình học cần giảm tải, tăng tính tích hợp, khuyến khích tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề. Sách giáo khoa cần trở thành công cụ mở, có thể điều chỉnh theo vùng miền, nhóm đối tượng và nhu cầu thực tiễn của người học. Ví dụ, ở các vùng nông thôn, có thể tăng cường nội dung giáo dục gắn với sản xuất nông nghiệp, kỹ năng sống và nghề nghiệp.

- Đổi mới phương pháp dạy học: Từ truyền thống “thầy giảng – trò chép”, cần chuyển sang phương pháp phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Dạy học qua trải nghiệm, dự án, tình huống thực tiễn, thảo luận nhóm… sẽ giúp học sinh phát triển toàn diện cả trí tuệ, cảm xúc và kỹ năng xã hội. Việc tổ chức các hoạt động học tập hợp tác, liên môn sẽ góp phần phát huy năng lực tích hợp và linh hoạt trong giải quyết vấn đề.

- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý và giảng dạy: Chuyển đổi số trong giáo dục cần được triển khai toàn diện, từ dạy học trực tuyến, nền tảng học tập mở đến sử dụng công cụ số để cá nhân hóa quá trình học. AI có thể hỗ trợ chấm điểm tự động, phân tích tiến độ học tập; Big Data giúp quản lý hồ sơ học sinh, phân tích xu hướng đào tạo… Đây chính là nền tảng để xây dựng giáo dục thông minh trong thời đại số.

- Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, văn hóa và bản lĩnh dân tộc: Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu, giáo dục cần giúp học sinh giữ được cốt lõi giá trị truyền thống, có bản lĩnh văn hóa, tự hào dân tộc. Cần lồng ghép các nội dung giáo dục lịch sử, đạo đức, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử… vào toàn bộ quá trình giáo dục, đặc biệt là thông qua các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo.

- Xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy giáo dục suốt đời và mở rộng cơ hội học tập cho mọi người: Không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Giáo dục người lớn, giáo dục nghề nghiệp, học tập suốt đời cần được đầu tư thích đáng. Các trung tâm học tập cộng đồng, lớp học từ xa, các khóa học kỹ năng số miễn phí… cần được phổ biến rộng rãi, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Những định hướng đổi mới này không chỉ là yêu cầu khách quan của thời đại mà còn là sứ mệnh lịch sử của giáo dục Việt Nam: nuôi dưỡng những thế hệ công dân mới – tự tin, sáng tạo, có đạo đức và khát vọng cống hiến cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của dân tộc.

 

3. Kết luận

Thời đại vươn mình của dân tộc Việt Nam là giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, giáo dục có vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, hình thành công dân toàn cầu mang đậm bản sắc dân tộc.

Để thực hiện sứ mệnh đó, giáo dục Việt Nam buộc phải đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc từ tư duy, chương trình, phương pháp đến hệ sinh thái học tập và quản lý. Chỉ khi giáo dục phát triển bền vững và trở thành động lực phát triển quốc gia thì dân tộc mới có thể vươn mình thực sự và bền vững.

2. Kiến nghị

  1. Về thể chế: Cần hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp để bảo đảm tính linh hoạt, mở và sáng tạo cho hoạt động giáo dục. Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục suốt đời cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đồng bộ và hiện đại.
  2. Về đầu tư: Tăng ngân sách cho giáo dục, đặc biệt là cho chuyển đổi số, giáo dục miền núi, vùng sâu vùng xa, giáo dục người lớn và giáo dục thường xuyên.
  3. Về đội ngũ giáo viên: Có chính sách đãi ngộ và phát triển nghề nghiệp hấp dẫn để thu hút nhân tài vào ngành, đồng thời nâng cao năng lực giáo viên trong việc sử dụng công nghệ và đổi mới phương pháp dạy học.
  4. Về truyền thông và nhận thức xã hội: Tăng cường công tác tuyên truyền để toàn xã hội nhận thức rõ vai trò sống còn của giáo dục trong thời đại mới, từ đó huy động sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội vào phát triển giáo dục.
  5. Về liên kết và hội nhập: Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giáo dục để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao chất lượng đào tạo và hội nhập hiệu quả vào xu thế giáo dục toàn cầu.

Giáo dục phải là ánh sáng dẫn đường trong hành trình vươn mình của dân tộc Việt Nam. Với quyết tâm đổi mới, tinh thần dân tộc và tư duy hội nhập, chắc chắn nền giáo dục nước ta sẽ trở thành nền tảng vững chắc để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
  2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
  3. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên). (2020). Cải cách giáo dục phổ thông – Lý luận và thực tiễn. Nxb Đại học Sư phạm.
  4. Phạm Tất Dong. (2020). Giáo dục người lớn và học tập suốt đời – Kinh nghiệm và triển vọng. Tạp chí Giáo dục.
  5. UNESCO. (2015). Rethinking Education: Towards a global common good? Paris.
  6. Trần Bá Dung (2023). Chuyển đổi số trong giáo dục – Cơ hội và thách thức. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam.
  7. Nguyễn Đắc Tấn. (2019). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục trong thời đại 4.0. Tạp chí Lý luận chính trị.
  8. Ban Tuyên giáo Trung ương. (2022). Đề cương tuyên truyền 40 năm đổi mới – Thành tựu và định hướng.
  9. Nguyễn Ngọc Trân. (2021). Phát triển con người và đổi mới giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nxb Khoa học Xã hội.
  10. Tô Bá Trượng, Thái Xuân Đào (2020). Giáo dục Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Tạp chí Giáo dục và Xã hội./.

 

 

Ý kiến bạn đọc
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.