GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Thiếu tá, TS Ngô Thị Hằng
Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp Thành An – Binh đoàn 11
1. Đặt vấn đề
Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 04/05/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII “về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định “Mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 thu hút 50 - 55% học sinh trung học vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp; đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động; có khoảng 90 cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, trong đó có một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện chức năng trung tâm quốc gia, trung tâm vùng; một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, G20; có khoảng 200 ngành, nghề trọng điểm, trong đó có 15 - 20 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt trội trong khu vực ASEAN và thế giới. Đến năm 2045, đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao của nước phát triển, đạt trình độ tiên tiến của thế giới” [1].
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang công bố Dự thảo Luât Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) để xin ý kiến đóng góp, theo kế hoạch sẽ trình Quốc hội thông qua vào tháng 10/2025. Theo Dự thảo Luật sẽ cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp; đổi mới cơ chế quản lý nhà nước theo hướng minh bạch, hiệu quả; tăng quyền chủ động cho Bộ GD&ĐT, địa phương và cơ sở GDNN, hướng tới hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện đại, hiệu quả và hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Chuyển đổi số đã làm thay đổi tư duy, phương thức, công cụ và mối quan hệ phát triển giáo dục nghề nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, thành tựu của cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những cơ hội và đặt ra những thách thức có tính bước ngoặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, giáo dục nghề nghiệp càng cần khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực lao động tay nghề cao. “Giáo dục nghề nghiệp phải thay đổi, vượt qua giới hạn của chính mình, kế thừa kinh nghiệm trong khi tiếp cận những xu hướng hiện đại của giáo dục nghề nghiệp quốc tế, nhằm đóng góp hiệu quả cho xã hội”, (Nguyễn Thị Kim Chi, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT). Trong kỷ nguyên số, giáo dục nghề nghiệp cần phải tăng cường ứng dụng công nghệ, chú trọng kỹ năng số, cá nhân hóa lộ trình học tập, và hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao.
2. Giải pháp phát triển GDNN trong kỷ nguyên số
2.1. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo nghề, cập nhật trình độ phát triển khoa học, công nghệ hiện đại trong kỷ nguyên số.
Đây là giải pháp trọng tâm để thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa nội dung, chương trình và phương pháp tổ chức đào tạo nghề ở các cơ sở GDNN. Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi năm 2025) đặt vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, chương trình GDNN là một nội dung quan trọng cần phải chỉnh sửa. Trước hết, đổi mới nội dung, chương trình GDNN vẫn phải tập trung vào những vấn đề cơ bản đã được xác định như sau:
- Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận trình độ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới. Trước mắt thực hiện chuyển giao 80 bộ chương trình cấp độ khu vực ASEAN và 60 chương trình, giáo trình cấp độ quốc tế; Xây dựng 50 bộ chương trình tiếng Anh chuyên ngành cho nhóm nghề cấp độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế; tổ chức thí điểm và hướng dẫn đánh giá đầu ra cho học sinh, sinh viên về kỹ năng tin học và tiếng Anh.
- Tiếp tục tiếp nhận chuyển giao và công nhận 22 bộ chương trình, giáo trình, học liệu, phương pháp giảng dạy, công nghệ đào tạo từ các nước phát triển trên thế giới; Tổ chức triển khai đào tạo thí điểm trình độ cao đẳng cho 12 nghề trọng điểm cấp độ quốc tế; Tổ chức triển khai đào tạo thí điểm trình độ cao đẳng cho 22 nghề trọng điểm cấp độ quốc tế.
- Về phương pháp và hình thức tổ chức GDNN, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong đào tạo tại các cơ sở GDNN, đặc biệt là những ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghệ số, công nghệ thực tế ảo, Internet vạn vật... Xây dựng các phần mềm mô phỏng thực hành của một số chương trình giảng dạy cho các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về mạng lưới GDNN, nhanh chóng số hóa, xây dựng các cơ sở GDNN thông minh, có khả năng kết nối, chia sẻ tài nguyên; có cơ chế quản trị và chia sẻ thông tin giữa các đối tác, đặc biệt giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp.
2.2. Hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị, nâng cấp và chuẩn hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học nghề, cập nhật trình độ phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDNN trong bối cảnh mới. Khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường phải cập nhật và đón trước sự phát triển của khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên số.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo của các cơ sở GDNN. Chủ động cập nhật các chủ trương chính sách mới của Chính phủ, tận dụng mọi cơ hội về chính sách trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cho sự phát triển GDNN.
- Tăng cường liên kết, hợp tác giữa nhà trường với nhà trường và nhà trường với doanh nghiệp nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong khai thác sử dụng trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động đào tạo nghề.
2.3. Huy động các nguồn lực tạo điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của GDNN
- Huy động vốn và phân bổ kinh phí đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm, khai thác sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc phù hợp với khả năng và nhu cầu thực tiễn của cơ sở GDNN.
- Ưu tiên nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các dự án đầu tư các trường chất lượng cao, trung tâm quốc gia và trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao có tinh chất lan tỏa và kết nối tại địa phương, vùng; đồng thời tập trung cho các dự án không có khả năng xã hội hóa như các cơ sở GDNN tại các vùng đặc biệt khó khăn, cơ sở GDNN đào tạo cho các đối tượng đặc thù.
- Tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ quốc tế. Đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển các cơ sở GDNN thông qua hỗ trợ về thuế, ưu đãi vốn vay, hỗ trợ mặt bằng.
- Đa dạng hóa nguồn lực xã hội, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP: Public - Private Partnership) trong GDNN nhằm huy động và sử dụng hiệu quả nhiều nguồn lực cho phát triển GDNN, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực, địa bàn mà khu vực ngoài công lập có thể tham gia. Bảo đảm chính sách bình đẳng đối với các cơ sở GDNN công lập và ngoài công lập.
- Dựa trên quy hoạch tổng thể hệ thống GDNN của cả nước và các vùng miền, các địa phương, trên cơ sở đó có kế hoạch chiến lược đầu tư xây dựng cơ bản, kết hợp xây dựng trọng tâm, trọng điểm phù hợp với khả năng thực tế. Xác định các trường trọng điểm để đầu tư hợp lý. Ưu tiên các trường chất lượng cao, trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20, trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4.
- Việc mua sắm trang thiết bị, máy móc hiện đại phải gắn với bồi dưỡng đội ngũ nhân lực sử dụng, có phương án mua các phần mềm công nghệ khai thác sử dụng có hiệu quả. Khắc phục tính trạng mua sắm thiết bị hiện đại nhưng không sử dụng được hoặc sử dụng không có hiệu quả.
2.4. Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề ở các cơ sở GDNN, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề
Một trong những bất cập trong đào tạo nghề ở các cơ sở GDNN hiện nay là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên còn hạn hẹp, chưa ngang tầm nhiệm vụ GDNN của thời đại. Học sinh học nghề chất lượng thấp. Cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh là các chủ thể tổ chức tiến hành các hoạt động giáo dục, đào tạo ở các cơ sở GDNN. Chất lượng GDNN cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Giải pháp này nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên có số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ GDNN trong bối cảnh mới; thực hiện quan điểm “đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, người dạy nghề, chuyên gia cho các ngành, nghề trọng điểm; nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại, chất lượng cao, tiếp cận chuẩn của các nước tiên tiến”. Đồng thời nâng cao chất lượng tuyển sinh, thu hút học sinh khá giỏi tham gia vào học nghề; “Chú trọng đào tạo kỹ năng nghề gắn với giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng số cho người học” [1]. Nội dung của giải pháp này tập trung vào phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề.
Thực hiện mục tiêu phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề theo Quyết định số 73/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 02 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đội ngũ nhà giáo GDNN, đến năm 2025, có khoảng 70.000 nhà giáo; phấn đấu thu hút khoảng 14.000 nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề tham gia vào giảng dạy các cấp trình độ của GDNN. Con số này sẽ là khoảng 67.000 nhà giáo; khoảng 50.000 nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề vào năm 2030.
Đến năm 2025, khoảng 50% nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn có trình độ thạc sĩ trở lên. Khoảng 20% nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn có trình độ kỹ năng nghề cao hơn một bậc so với yêu cầu chuẩn kỹ năng nghề đối với nhà giáo. Khoảng 60% nhà giáo đạt chuẩn để giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và G20.
Đến năm 2030, khoảng 70% nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn có trình độ thạc sĩ trở lên. 30% nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn có trình độ kỹ năng nghề cao hơn một bậc so với yêu cầu chuẩn kỹ năng nghề đối với nhà giáo. Khoảng 65% nhà giáo đạt chuẩn để giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và G20.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, chế độ, chính sách về đãi ngộ, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề: Xây dựng và ban hành Chức danh nghề nghiệp, Tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh nghề nghiệp, chuyển xếp lương cho giáo viên dạy nghề; quy định phụ cấp đối với giáo viên dạy cả lý thuyết và thực hành (dạy tích hợp);
- Định kỳ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới, phương pháp giảng dạy… Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho nhà giáo, đáp ứng yêu cầu giảng dạy ngành, nghề mới mà xã hội có nhu cầu. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của nhà giáo.
- Có chính sách thu hút và phát triển mạnh đội ngũ nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề đủ năng lực tham gia đào tạo các cấp trình độ trong GDNN. Hình thành mạng lưới kết nối đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia và người dạy nghề trong GDNN.
- Đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng GVDN, chú trọng phương pháp thực hành, hoạt động nhóm; đổi mới nội dung và hình thức tổ chức thực tập sư phạm; phối hợp với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, định kỳ hàng năm đưa GVDN đi thực tế, rèn luyện kỹ năng nghề, chia sẻ kỹ thuật, công nghệ mới... tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Đa dạng hóa các mô hình đào tạo giáo viên dạy nghề để đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Ngoài các mô hình đào tạo truyền thống, các mô hình liên thông lên đại học sư phạm kỹ thuật cho sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng nghề và mô hình bồi dưỡng kỹ năng nghề cho giáo viên đã tốt nghiệp đại học sư phạm kỹ thuật và đại học chuyên ngành.
- Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực ASEAN: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (trong nước và ngoài nước) cho giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế, khu vực theo chương trình tiên tiến của nước ngoài theo hướng chuẩn hoá, đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
- Đối với giáo viên dạy các nghề được đầu tư trọng điểm cấp độ quốc gia và các nghề không được đầu tư trọng điểm: Xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề theo chuẩn quốc gia.
- Đối với giáo viên dạy trình độ Sơ cấp nghề: được đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia về kỹ năng nghề và sư phạm dạy nghề.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc phát triển đội ngũ GVDN tiến tới trao đổi chuyên gia, giáo viên dạy nghề giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng quan hệ hợp tác với một số nước có lĩnh vực dạy nghề phát triển trong khu vực ASEAN và châu Á (như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản …), EU (như Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Anh,…) và Bắc Mỹ thông qua việc đưa GVDN đi đào tạo ở nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo tại Việt Nam.
2.5. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ở các cơ sở GDNN; nâng cao chât lượng tuyển sinh, thu hút học sinh khá, giỏi tham gia vào học nghề, thực hiện phân tầng chất lượng đào tạo.
Cùng với việc tăng quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN phải hoàn thiện quy chế quản lý, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý GDNN. Khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn với nhau giữa các văn bản quản lý hiện nay, giữa Luật Giáo dục với Luật Giáo dụng nghề nghiệp và các Luật khác.
Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý ở các cơ sở GDNN. Trong đó chú trọng các tiêu chí về năng lực quản trị hiện đại, kỹ năng số, nghiên cứu khoa học, năng lực ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế.
Xây dựng bộ chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về quản lý GDNN và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cơ sở GDNN đảm bảo yêu cầu mới về tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý.
Hình thành trung tâm có chức năng đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý GDNN thuộc Trung tâm Quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao. Hỗ trợ đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo tại doanh nghiệp.
Nâng cao chât lượng tuyển sinh, thu hút học sinh khá, giỏi tham gia vào học nghề, thực hiện phân tầng chất lượng đào tạo. Tăng cường tuyển sinh học sinh và các đối tượng đã tốt nghiệp THPT vào học nghề, từng bước hạn chế tuyển sinh học sinh tốt nghiệp THCS, đồng thời có chính sách để học sinh học nghề phải có trình độ kiến thức THPT.Mặt khác, phải tiếp tục triển khai có hiệu quả Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025”. Theo đó, đến năm 2025 “Phấn đấu ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 30%;” và “Phấn đấu ít nhất 45% học sinh tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ cao đẳng; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 35%.”. Thực hiện phân luồng triệt để, để đảm bảo các mục tiêu trên của Đề án.
Thực hiện mục tiêu tuyển sinh GDNN theo Quyết định số 73/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 02 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, quy mô tuyển sinh theo trình độ đào tạo đến năm 2025, đạt khoảng từ 2,5 triệu đến 2,7 triệu lượt người/năm. Trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp chiếm khoảng 25%. Đến năm 2030, con số này đạt khoảng từ 3,8 triệu đến 4 triệu lượt người/năm, và trình độ cao đẳng, trung cấp chiếm khoảng 25-30%.
Nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện phân tầng chất lượng theo đối tượng đào tạo. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo nghề ở các cơ sở GDNN theo hướng tăng cường thực hành, thực tập, nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.... Đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Tạo điều kiện để người học có thể học tiếp ở các trình độ đào tạo cao hơn.
2.6. Đổi mới phương thức kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo của các cơ sở GDNN theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp
Công tác kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo của các cơ sở GDNN trong những năm qua được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình. Hầu hết các cơ sở GDNN đều thực hiện đánh giá trong và đánh giá ngoài theo định kỳ. Kết quả đánh giá đều đạt chuẩn và trên chuần. Tuy nhiên, sản phẩm đào tạo ra trường lại chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Mâu thuẫn giữa một bên là kết quả kiểm định đạt chuẩn và trên chuẩn với một bên là trình độ kiến thức, kỹ năng tay nghề của học viên tốt nghiệp ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Nguyên nhân của mâu thuẫn và sự bất cập đó nằm ở bộ tiêu chí kiểm định, đánh giá chất lượng mang tính giáo điều. Việc xây dựng bộ tiêu chí được thực hiện ngược quy trình, các tiêu chuẩn, tiêu chí được sao chép từ các nguồn tài liệu khác nhau và áp đặt mang tính chủ quan, thiếu tính thực tiễn. Giải pháp này nhằm khắc phục những bất cập trong xây dựng bộ tiêu chí và tổ chức kiểm định đánh giá chất lượng đào tạo ở các cơ sở GDNN hiện nay. Giải pháp này không chỉ tác động đến các hoạt động kiểm định, đánh giá chất lượng đào tạo nghề mà còn tác động đến các khâu, các bước, các thành tố cấu trúc của quá trình đào tạo nghề. Nội dung của giải pháp này bao gồm:
Một là, xây dựng bộ tiêu chí kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Theo quy trình hiện nay, các nhà trường xây dựng mô hình sản phẩm đào tạo với các tiêu chí do nhà trường tự đặt ra. Nhà trường phải cố gắng đặt ra các tiêu chí sao cho phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, dù có cố gắng đến mấy thì sản phẩm đào tạo của các nhà trường cũng không thể thỏa mãn hoàn toàn yêu cầu luôn biến động của doanh nghiệp. Có thể chỉ thỏa mãn được một vài yêu cầu nào đó mà thôi. Đối với doanh nghiệp, khi tuyển lao động từ học viên tốt nghiệp ở các cơ sở GDNN giống như đi tìm mua các sản phẩm trôi nổi trên thị trường.
Để khắc phục những bất cập trên đây cần phải xây dựng bộ tiêu chí kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp là đơn vị đặt hàng cho các cơ sở GDNN về sản phẩm đào tạo mà doanh nghiệp cần. Hiệp hội các ngành nghề phải thống nhất đặt ra các tiêu chí về sản phẩm đào tạo mà ngành nghề đó cần. Dựa trên cơ sở các tiêu chí đó, các nhà trường mới xây dựng thành bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Trong đó, các tiêu chí được phân cấp theo từng nhóm để gắn với trọng số điểm tích hợp. Nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan kiểm định chất lượng cùng ký vào bộ tiêu chí đó và trở thành văn bản có tính pháp lý để sử dụng trong kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo. Bộ tiêu chí này được công bố công khai để cán bộ, giáo viên, học viên và toàn xã hội cùng biết, cùng quản lý chất lượng.
Hai là, tổ chức đào tạo đào tạo theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Dựa trên các tiêu chí kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo đã được xác định, các nhà trường tổ chức cho các khoa, tổ bộ môn xây dựng nội dung, chương trình môn học theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tham gia xây dựng chương trình đào tạo cùng nhà trường.
Nhà trường tổ chức đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp. Từ việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động đào tạo đều phải bám theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhà trường có thể liên kết với doanh nghiệp trong việc mua sắm, trao đổi máy móc, thiết bị cho đào tạo và thực hành, thực tập của học viên.
Ba là, tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp. Kiểm định, đánh giá chương trình và kiểm định, đánh giá toàn diện nhà trường đều được thực hiện theo quy trình kiểm định, từ đánh giá trong đến đánh giá ngoài. Mọi hoạt động đánh giá phải được thực hiện theo bộ tiêu chí đã được ba bên là nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan kiểm định chất lượng chuyên nghiệp đã thống nhất.
Kiểm định, đánh giá ngoài do cơ quan kiểm định chuyên trách tổ chức thực hiện. Trong những trường hợp cụ thể, những lĩnh vực chuyên sâu sẽ mời chuyên gia chuyên ngành của doanh nghiệp cùng tham gia đoàn kiểm định.
3. Kết luận
Hoạt động đào tạo ở các cơ sở GDNN luôn vận động, phát triển theo sự vận động phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, của thực tiễn nghề nghiệp và của thị trường lao động. Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể có những yêu cầu khác nhau đối với GDNN. Để nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở GDNN trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị, huy động các nguồn lực tạo điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của GDNN là giải pháp trọng tâm, trọng điểm trong quản trị nhà trường, trực tiếp tác động vào các thành tố tạo nên chất lượng của quá trình đào tạo nghề.
Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý ở các cơ sở GDNN, nâng cao chất lượng học sinh học nghề là giải pháp đảm bảo về nguồn nhân lực cho các cơ sở GDNN, tác động vào các chủ thể của hoạt động đào tạo nghề ở các cơ sở GDNN.
Đổi mới phương thức kiểm định, đánh giá chất lượng và kết quả đào tạo của các cơ sở GDNN theo chuẩn đầu ra của doanh nghiệp là giải pháp điều kiện đảm bảo cho sự liên kết, phối hợp giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề.
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban Bí thư (2023), Chỉ thị 21-CT/TW, ngày 4-5-2023 “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022), Thông tư số 15/2022/TT-BGDĐT, ngày 08-11-2022, Quy định việc giảng dạy khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp
[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
[5]. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.