Bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng, Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng việc nâng cao đạo đức cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ của giảng viên và các đơn vị chuyên môn
Đặt vấn đề
Trong môi trường giáo dục đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, giảng viên và các đơn vị chuyên môn trong mỗi cơ sở đào tạo giáo dục có nhiệm vụ quán triệt, vận dụng quan điểm về đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về đạo đức theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Việc giảng viên và các đơn vị chuyên môn của hệ thống chính trị quán triệt, nâng cao đạo đức cách mạng trong thực thi nhiệm vụ cho thấy tinh thần cầu thị, mẫu mực của đội ngũ giảng viên; thể hiện khát vọng nâng cao năng lực từng cá nhân căn cứ vào các chuẩn mực văn hóa công vụ hiện tại, nâng cao “tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; đáp ứng yêu cầu phục vụ Nhân dân và xã hội”(1); tăng khát vọng đáp ứng tốt thực tiễn cách mạng công nghệ lần thứ tư, thực tiễn chuyển đổi số quốc gia toàn diện của Việt Nam trong giao lưu hội nhập toàn cầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ” (2). Khối giảng viên và đơn vị chuyên môn học Bác, làm tốt việc nâng cao đạo đức cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ là cách tốt nhất để bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước hiện nay.
Nội dung
I. Xác định, đồng thuận cách hiểu về đạo đức cách mạng của giảng viên và khoa chuyên môn trong tình hình mới
I.1. Đạo đức cách mạng trong giảng viên
Đó là sự kiên định trong vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị Việt Nam;
Là trân trọng, trách nhiệm, chuyên nghiệp, tin tưởng vào tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của đơn vị. Bao dung, rộng lượng, tôn trọng sự khác biệt. Tin tưởng vào bản thân, đồng chí, đồng nghiệp, học viên. Thẳng thắn, trực diện, công tâm, công bằng, khách quan với đồng chí, đồng nghiệp, học viên. Nghiêm khắc, đòi hỏi cao với bản thân trong kiến tạo, hành động, thực hiện khát vọng cá nhân vì mục tiêu cống hiến, phục vụ.
Là việc cầu thị để hoàn thiện phẩm chất, bản lĩnh, nâng cao nhận thức, kỹ năng, năng lực cá nhân. Thể hiện ở việc tự giác học tập những cái mới, cái còn thiếu, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; sáng tạo trong phát triển, củng cố bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, phương pháp khoa học, chuyên nghiệp trong công tác để đáp ứng yêu cầu của đơn vị chuyrn môn, của xã hội đổi mới và hội nhập. Cần cù, chăm chỉ, tận tuỵ, dốc sức vì công việc chung, hữu ích cho cộng đồng. Thanh liêm, chính trực, gìn giữ tư cách, danh dự của nhà giáo. Khẳng khái, chân thành, khiêm tốn; không quỵ luỵ, luồn cúi; dám nghĩ, nói, làm, chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thử thách, hành động quyết liệt vì lợi ích chung.
Chủ động, tích cực, thẳng thắn, sáng tạo, khoa học trong tham gia xây dựng đơn vị chuyên môn. Đặt nhiệm vụ, lợi ích của tổ chức trên lợi ích cá nhân; có ý thức, trách nhiệm chống lại những biểu hiện lười biếng, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, tranh công, đổ lỗi, đố kỵ, hạ bệ bằng chuyên chế đám đông …
Là có lối sống, tác phong khiêm tốn, giản dị, cầu thị; phong cách làm việc hoà nhã, đúng mực, đảm bảo văn hoá công vụ. Có chương trình, kế hoạch, làm việc khoa học, giải quyết công việc đúng trách nhiệm, đúng vai; xác định rõ thành công và hạn chế, nguyên nhân thành công và hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ để có biện pháp sửa chữa, khắc phục, tạo cơ sở phát huy tiếp các thành tựu đã có.
Gương mẫu, trách nhiệm trong công việc; trong lối sống; làm việc dân chủ, khoa học, tôn trọng thực tế và đối tác; thống nhất nói và làm; dám nghĩ, làm, chịu trách nhiệm; gương mẫu không tham vật chất, đảm bảo quyền lợi vật chất cho đồng nghiệp, cộng sự; không cào bằng để khuyến khích, động viên sự phát triển và ngăn ngừa thói dựa dẫm, ỷ lại, lười nhác, ba phải trong công vụ. Chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước, đơn vị công tác; thượng tôn pháp luật, đúng Hiến pháp, pháp luật; tuyệt đối không dùng luật, lách luật, canh ty luật để bắt tay hợp tác phục vụ các mưu cầu lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích cơ hội chính trị; thẳng thắn, chân thành, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất nội bộ, không thỏa hiệp với chuyên chế đám đông, dân chủ xuôi chiều, bàng quan,vô trách nhiệm.
I.2. Đạo đức cách mạng trong đơn vị chuyên môn
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nguyên tắc của Đảng, các quy định, quy chế ngành, nghề, đơn vị.
Xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động chuyên môn phục vụ nhiệm vụ chính trị và cơ sở đào tạo, phục vụ học viên và nhân dân; đúng tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi kỳ vọng; kết nối khát vọng cá nhân với khát vọng tập thể để sớm đạt được các mục tiêu đã định.
Tập thể chuyên môn đoàn kết thống nhất, đồng thuận, dân chủ, sáng tạo về nhận thức, tư tưởng, hành động trong nghiên cứu, học tập, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; Kiến tạo môi trường sinh thái công vụ phù hợp cho cái tốt, cái thiện, cái đẹp, cái cao cả… sinh sôi, nảy nở và lan tỏa. Kiên quyết dẹp tiêu cực, vi phạm pháp luật, và đạo đức, dẹp lối sống vị kỷ, vị tiền, vị lợi ích vụn vặt. Trực diện nhận diện, gọi tên, phê phán các biểu hiện đạo đức giả để các chủ thể điều chỉnh. Đảm bảo công bằng, công tâm, chính trực, hiệu quả để hạn chế hành vi, biểu hiện đạo đức giả trong công vụ.
Đơn vị chuyên môn cần có thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học trước những sai lầm, khuyết điểm lớn nhỏ, chỉ ra được nguyên nhân, mục đích gốc dẫn đến sai lầm, khuyết điểm bắt nguồn từ đạo đức giả; cần có nhãn tuệ khoa học để xem xét biểu hiện đạo đức giả do hạn chế trình độ, năng lực cá nhân lãnh đạo chuyên môn hay do lòng tham, sự đố kỵ mà họ cố tình vi phạm luật định, o bế, buộc người khác phải tuân thủ, phục tùng, hàm ơn, tạo sức mạnh quyền lực ảo từ vị trí công vụ. Có vậy, tập thể chuyên môn mới giúp người sai lầm, có khuyết điểm, hạn chế trong tầm nhìn, năng lực ở các dạng thức khác nhau thừa nhận hạn chế, sữa chữa, không tái phạm các hành vi đạo đức giả; mới tạo được môi trường sinh thái công vụ tốt đẹp, đào tạo được đội ngũ lãnh đạo quản lý phù hợp tại thời khắc giao lưu hội nhập quốc tế đương đại, thúc đẩy phát triển nội lực giảng viên, khoa chuyên môn và hệ thống chính trị.
II. Kiên quyết trực diện trong nhận diện, gọi tên và khắc phục các biểu hiện đạo đức giả xuất hiện trong đội ngũ giảng viên và đơn vị chuyên môn
II. 1. Nhận diện để khắc phục đạo đức giả trong đội ngũ giảng viên
Đạo đức giả là cách ứng xử giả tạo, không thật với bản ngã, đi ngược với những chuẩn mực đạo đức thông thường nhưng lại dùng quyền được quyết định chính danh công vụ để che đậy cái tiêu cực, thối nát, tệ hại của đạo đức bên trong.
Đạo đức giả rất khó bị phát giác bởi khả năng biến báo, cắt xén sự thật, tráo đổi nội dung, tình tiết, thậm chí tạo dựng tình tiết và tình huống một cách giả chân vui vẻ. Nó có thể làm suy đồi băng hoại, đảo lộn giá trị đạo đức, giá trị chân, thiện, mỹ của con người, của tổ chức và xã hội, kìm hãm, kéo lùi sự phát triển chung. Đạo đức giả khi được dung túng sẽ lan nhanh như cỏ dại, kết thành bè tảng xô đẩy không ít người sống thật, trực diện, có trình độ, có tâm, có nhiệt huyết, khát vọng cống hiến, góp sức cho phát triển thịnh vượng chung vào tình huống nghịch cảnh, oan ức, làm nhiều sai nhiều... Đặc biệt nguy hại khi có người đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn. Khi được giao quyền, người này sẽ chỉ vun vén cho lợi ích cá nhân và nhóm “cánh hẩu”, biết phục tùng vô điều kiện, bất chấp đúng sai. Khủng khiếp hơn, người đạo đức giả còn tạo sinh ra nhiều người có lối sống, lời nói mang màu đạo đức giả trên nhiều chiều cạnh biểu hiện như: thiếu bản lĩnh; ngại, sợ trù dập; sợ bị đánh hội đồng; không chính kiến; tham lợi ích vật chất; ba phải, “gió chiều nào che chiều ấy”; sợ mất lợi ích, luôn be chắn giữ lợi ích cho riêng mình; thấy đúng không dám thừa nhận, thấy sai không dám lên tiếng ...
Đạo đức giả làm xuất hiện giả tạo và ích kỷ, không còn thật lòng đoàn kết. Cần nhận diện và khắc phục hiện tượng giảng viên chỉ khéo nói, hứa hẹn suông. Ví dụ: hứa nhận đề tài khoa học, em, (anh, chị, mình…) sẽ mời/nhờ anh, chị (em, bạn…) cùng làm nhưng khi có đề tài khoa học thì bỏ qua những đồng nghiệp thực sự có thể làm hiệu quả bởi không muốn chia sẻ quyền lợi kinh tế, chính trị cho những người có khả năng vượt trội; không tạo cho người khác có cơ hội hơn mình trong tri thức chuyên môn. Những người này sẽ tìm và kết nhóm nghiên cứu có thể “dĩ hòa vi quý”, “ngậm miệng ăn tiền”. Họ không tâm huyết vì khoa học, vì cộng đồng, không hy sinh thời gian, công sức, xả thân vì khoa học. Họ chỉ cần người chạy vạy, nhờ vả, sao chép, vay mượn đâu đó cho ra sản phẩm mà ít phải động não nhất, không quan tâm hiệu quả, chất lượng sản phẩm có hữu ích cho cộng đồng hay không. Thực tế, không ít đề tài có kết cấu sai đích, thiếu khung lý thuyết phù hợp bởi người làm không chịu tư duy, bỏ công đã tạo ra sản phẩm không hữu ích cho cộng đồng. Các sản phẩm đó được thông qua, nghiệm thu cũng là biểu hiện và sản phẩm của đạo đức giả. Nhìn qua tưởng như vô hại nhưng nếu cứ để tình trạng như vậy kéo dài, không ngăn ngừa, họ sẽ như cỏ dại sau mưa, kết lại để níu kéo, cản trở những nhà giáo, nhà khoa học chính trực, vì cộng đồng; cản trở sự vươn lên của các nhà khoa học đích thực. Lâu dần các biểu hiện, sản phẩm của đạo đức giả lan rộng thành số đông, biến những nhà khoa học nghiên cứu thật, “trầy da tróc vẩy, đau đáu với đứa con tinh thần” thành thiểu số, thành yếu thế. Điều này ảnh hưởng đến ý chí nghiên cứu, đến sức chiến đấu, hy sinh vì chân, thiện, mỹ, vì cái cao cả và sáng tạo trong khoa học. Nó làm giảm động lực cống hiến vì cái chung và vì sự phát triển bền vững, tiến bộ. Việc nhận diện các hành vi, biểu hiện, sản phẩm đạo đức giả cần được gắn với tự phê bình thường xuyên như rửa mặt hằng ngày theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó sẽ giúp mỗi người tự hoàn thiện, nâng cao giá trị trong đổi mới và hội nhập.
II. 2. Nhận diện để khắc phục đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn
Đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn biểu hiện ở lối sống giả dối, lời nói thiếu thành thực, dùng quyền của trưởng, phó đơn vị để phủ đầu, dọa, gây sức ép buộc người khác phải im lặng, không dám nói sự thật, hoặc khiến những người từng nói thẳng mất niềm tin khi thấy nội dung nói ra có đúng, chính xác cũng không giải quyết. Nó đặc biệt nguy hại khi phụ trách đơn vị là những người sau vài ba nhiệm kỳ phụ trách mà chuyên môn không lớn mạnh, lại trì trệ, đi xuống bởi cách làm, sản phẩm tạo ra có hình thù “đầu voi đuôi chuột” hoặc lỗ mỗ dạng “thầy bói xem voi” bởi không đủ khả năng bao quát và khái quát, không đủ năng lực kết nối các khát vọng cống hiến cá nhân với tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của đơn vị, với khát vọng chung của quốc gia dân tộc. Thực tế không ít người ngay thẳng, chính trực, nỗ lực vì cái chung, không vụ lợi, toan tính bị nhóm đạo đức giả xem như cái gai trong mắt mà cố kết, “đoàn kết xuôi chiều” mang danh dân chủ, tập thể, tạo hiệu ứng hay chuyên chế đám đông để tô vẽ không thật, để vùi dập, vô hiệu hóa những cống hiến, sáng tạo, tích cực, khoa học ... biến người chính trực, nhiệt huyết, tận tâm thành tội đồ hay dị dạng trong thực tiễn.
Trong một đơn vị chuyên môn có người/nhóm đạo đức giả, nhóm này sẽ luôn tìm cách ngáng trở những người sống thật, chuyên tâm cống hiến, những người không vụ lợi, không bè phái, không xu nịnh bằng cách tô vẽ, tuyên truyền, tạo dư luận không đúng sự thật để biến tốt thành xấu, đúng thành sai, tích cực thành tiêu cực, nhẹ thì thì khiến họ bị thiệt hại về tinh thần, vật chất, khiến cho những gì họ đáng được hưởng từ sức lực và trí tuệ sẽ rơi vào tay những kẻ đạo đức giả biết che chắn, biến báo, rào đón, kết nhóm lợi ích, thích dùng tri thức và lợi ích từ người khác; khiến họ bị làm những việc không đúng vị trí và năng lực, hoặc bị vô hiệu hóa khả năng cống hiến, sáng tạo, phát triển cho cộng đồng; nặng hơn nữa thì “ thân bại danh liệt” bởi những chiêu “tung chưởng” từ “hiệu ứng đám đông”, hay “đồng thuận xuôi chiều” từ nhóm người đạo đức giả. Nhóm này sẵn sàng “suy bụng ta ra bụng người”, “thọc gậy bánh xe”, “ném đá giấu tay”, “gắp lửa bỏ tay người”, “xúi bẩy, tạo tình huống “giả chân như thật”, “giương đông kích tây”, “không ăn được thì đạp đổ”, thậm chí cả “la làng ăn vạ”, hay “cả vú lấp miệng em”… tìm mọi cách để hạ bệ, quy chụp, giảm uy tín, danh dự người họ không vừa mắt; người không phục tùng, không cổ xúy cho những lợi ích, những thói xấu lớn nhỏ. Nhóm này còn luôn tìm cách để tham gia, dung dưỡng những chây lười, trì trệ, dựa dẫm, trông ngóng người khác nghĩ, làm, tranh thủ “hớt tay trên” bằng ngụy biện: làm như vậy mới thực sự hòa đồng, gần gũi và dân chủ.
Minh chứng biểu hiện đạo đức giả có thể xuất hiện rất cụ thể trong một đơn vị chuyên môn và đa sắc, phong phú. Trải nghiệm, quan sát, tổng kết thực tiễn, tác giả đã đưa ví dụ cụ thể về biểu hiện của đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn – nơi tập hợp những con người, giảng viên cụ thể. Vì vậy, đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn nếu có luôn là vấn đề thực tiễn, gắn với chủ thể người cụ thể. Việc nhận diện, gọi tên đích danh đạo đức giả khi nó xuất hiện trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy thực thi công vụ của khối giảng viên là vô cùng hữu ích. Đây là cách trực diện có thể phòng ngừa, điều chỉnh, ngăn chặn, xóa sổ những biểu hiện đạo đức giả trước khi chúng lây lan, phát triển như cỏ dại trong cuộc sống hiện đại. Cũng là cách để hướng đến minh bạch, công khai, hiệu lực và hiệu quả hôm nay:
II. 2.1. Nhận diện đạo đức giả trong nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy của đơn vị chuyên môn.
Đạo đức giả xuất hiện ở một đơn vị chuyên môn khi nghiên cứu khoa học không xuất phát từ khoa học đích thực. Nó còn có thể xuất hiện, nảy sinh từ lãnh đạo đơn vị không vì khoa học, chỉ vì yêu, ghét cá nhân, không hỗ trợ đồng nghiệp, thậm chí còn viết thư đề nghị phủ nhận kết quả nghiên cứu, thực làm của đồng nghiệp. Đạo đức giả xuất hiện khi lãnh đạo đơn vị chuyên môn ứng xử với các chủ nhiệm đề tài khoa học cảm tính, không ưa thì yêu cầu, bắt bẻ sửa lên, xuống; với chủ nhiệm đề tài khác biết im lặng, biết nịnh, biết phục tùng, lại tỏ ra thoải mái, rộng rãi, xuê xoa, làm thế nào cũng được.
Đạo đức giả thể hiện ở việc lãnh đạo khoa nếu chưa làm, không làm các việc đã nhận, hứa trịnh trọng trước tập thể song khi họp không thẳng thắn nói tôi chưa có sản phẩm mà luôn biến báo, ém nhẹm việc chưa làm; không hoàn thiện đúng và đủ, không nêu gương trước các giảng viên, đồng nghiệp. Đôi khi còn rung người này, dọa người khác; lấn lướt, thậm chí lấy danh lãnh đạo cấp trên, dùng “khẩu dụ” từ cấp trên, tỏ vẻ thân thiết lắm với cấp trên để thị uy đồng nghiệp; không ít khi hợp sức, hợp lực cùng nhóm để tạo chuyên chế đám đông, phản ánh những việc không đúng nhằm áp chế, phủ nhận đồng nghiệp; xí xóa các việc làm không đúng, không minh bạch trong đơn vị chuyên môn.
Đạo đức giả còn thể hiện ở việc khi cần người để tạo chuyên chế đám đông với giảng viên nào đó, để thêm tiếng nói áp chế; hoặc cần hỗ trợ, dựa dẫm về chuyên môn do không đủ năng lực, tự tin quyết định chuyên môn, lại không muốn chịu trách nhiệm chuyên môn một mình thì không đúng thành phần, đối tượng họp cũng huy động họp, biến báo, giảo ngôn, cho đó là dân chủ.
II.2.2. Nhận diện để khắc phục đạo đức giả trong tổ chức giảng dạy, thực hiện nhiệm vụ chính của đơn vị chuyên môn.
Đạo đức giả thể hiện khi dùng quyền được giao để chọn việc có lợi nhất cho bản thân trong làm lịch, chọn lớp giảng dạy; chọn hướng dẫn giảng viên ngạch dưới; đăng ký đề tài khoa học các cấp, thông qua bài giảng mới, và gây khó dễ với đồng nghiệp trong giao nội dung giảng dạy, dự giờ, đổi lịch, xếp lớp, bài ..v..v. Đạo đức giả trong đơn vị chuyên môn gắn với chủ thể người cụ thể, Họ nói một đằng, làm một nẻo; bên ngoài cười nói xởi lởi, vồn vã với đồng nghiệp, học trò, cấp trên, cấp dưới nhưng ngay và luôn sau đó có thái độ khác, thậm chí buông lời nói xấu, nhận xét xấu không nề hà có người lớn, nhỏ, cũ, mới, thậm chí dung dưỡng để cả nhóm cùng chê bai, kể xấu người vừa xuất hiện… Tồn tại đạo đức giả như vậy làm lẫn lộn những giá trị đạo đức, khiến cho thật giả bất phân; tạo ảnh hưởng rất xấu đến lớp trẻ, thế hệ mới trong đơn vị. Đạo đức giả còn xuất hiện khi có tình huống biến báo nội dung, tính chất các cuộc họp không đúng yêu cầu, chỉ đạo của cấp trên để rộng đường tính toán lợi ích cho mình. Việc chính, cơ bản khoa chuyên môn cần triển khai trước thì không triển khai, chỉ triển khai những việc phụ, rộng cửa cho các toan tính lợi ích cá nhân
Đạo đức giả xuất hiện khi nhận quà học viên gửi chuyển các giảng vào các dịp lễ Tết... tri ân thầy cô nhưng không thông tin, không nói cụ thể, kịp thời ngay sau khi nhận chuyển, đôi khi tự quyết và biến báo để làm những việc khác, hoặc rất lâu sau đó, hết tính thời sự mới thông báo và tin lại; hay có hiện tượng nhận chuyển tài liệu, giấy tờ văn bản mời họp hội thảo … vì lý do cá nhân yêu, ghét, không tin lại, tạo hiểu nhầm, tạo tình huống nói xấu, không đúng sự thật để gán cho người khác; lấy chuyện riêng tư của người khác để kể lể nhiều nơi, thêm giọng điệu ngôn từ, thái độ cho hấp dẫn, quá mức thành xuyên tạc, dựng chuyện.
Đạo đức giả hiện hữu khi có dối trá, nói không đi đôi với làm, khi có những hành vi ứng xử không thật lòng nhưng lại giỏi dạ vâng, ve vuốt, khen nịnh, o bế người khác, kết nhóm nhỏ to... Người đạo đức giả luôn ứng xử với cấp trên vồn vã, xun xoe, nhiệt tình, sốt sắng, nhanh nhẹn; với cấp dưới và đồng nghiệp không vào phe, nhóm thì lên mặt hoạnh họe, chảnh chọe, đe nẹt, dọa dẫm, khó dễ.
Trung ngôn thì nghịch nhĩ. Song nhìn thẳng, nói thẳng và điều chỉnh được trong từng đơn vị chuyên môn, từng người cũng là phúc báu cho mỗi đơn vị, mỗi người khi ở đó xuất hiện những biểu hiện đạo đức giả. Việc nhận diện, nói thẳng, điều chỉnh những biểu hiện đạo đức giả sẽ giúp ngăn ngừa đạo đức giả có nguy cơ phát tác trong cộng đồng, trong đội ngũ giảng viện thế hệ tiếp nối. Trực diện, gọi tên đích danh những thói đạo đức giả đang hiện hữu để kiểm soát, điều chỉnh, hạn chế, ngăn ngừa đạo đức giả xuất hiện ở các đơn vị chuyên môn sẽ thúc đẩy được sự phát triển chung của từng đon vị, từng người. Như vậy mới tạo được nền tảng để tiệm cận các giá trị chân, thiện, mỹ cốt lõi, hướng đến môi trường sinh thái văn hóa công vụ trong lành, vui vẻ, đoàn kết đính thực để tận tâm cống hiến, sáng tạo và phụng sự. Như vậy mới nâng cao đạo đức cách mạng khi thực hiện nhiệm vụ của giảng viên và đơn vị chuyên môn, mới là cách góp phần bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.
III. Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục đạo đức giả trong môi trường công vụ ở khối giảng viên và các đơn vị chuyên môn
Qua nghiên cứu, trải nghiệm gắn lý luận với thực tiễn công tác, giảng dạy và tổ chức giảng dạy đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị Việt Nam, bài viết đề xuất chín giải pháp phát huy và nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục đạo đức giả cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, cho đơn vị chuyên môn theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII:
(1) Cán bộ, giảng viên, đơn vị chuyên môn quán triệt trung thành với Nhà nước CHXHCN Việt Nam, với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ danh dự Tổ quốc, lợi ích quốc gia, tôn trọng, tận tụy phục vụ Nhân dân; trung thành với tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của đơn vị, ý thức rõ trách nhiệm và bổn phận của bản thân.
(2) Cán bộ, giảng viên thường trực ý thức rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, kỹ năng các mặt để đáp ứng các yêu cầu từ đơn vị chuyên môn và xã hội. Ý thức tự rèn luyện này là chìa khoa vàng của đạo đức cách mạng bởi chỉ có tự thân và chuyển hóa tự thân mới thực sự chuyển từ lượng thành chất, mới có hiệu quả đích thực.
(3) Cán bộ, giảng viên cần trung thực, có chí tiến thủ, có tinh thần phản biện khoa học sắc sảo, luôn phê bình và tự phê bình, không thành kiến, không giấu khuyết điểm, nỗ lực nêu gương về đạo đức cách mạng, Tâm huyết , tận tụy, gương mẫu, phấn đấu không ngừng để làm gương cho học viên về tri thức, phẩm chất đạo đức, tác phong, bản lĩnh, lập trường cách mạng.
(4) Cán bộ, giảng viên thường xuyên học tập, quán triệt theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nằm lòng triết lý của Người để làm việc và phụng sự. Đó là: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(3); Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì tránh”(4); “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(5).
(5) Cán bộ, giảng viên và đơn vị chuyên môn có tinh thần trách nhiệm cao với công việc; không suy bì xem công việc có quan trọng hay không; Giữ vững tinh thần, thái độ công tâm, khách quan, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ, khó khăn, trở ngại cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tôn trọng kỷ luật công vụ, tuyệt đối tránh cào bằng và trung bình chủ nghĩa.
(6) Cán bộ, giảng viên, đơn vị chuyên môn phải có tinh thần khoa học, đổi mới, sáng tạo trong thực hành giảng dạy, nghiên cứu khoa học, có ý chí cầu tiến cầu thị, học cái mới trong công việc. Biết cách tránh những cám dỗ thường nhật; tuân thủ đường lối chủ trương nhưng cần suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo riêng.
(7) Cán bộ, giảng viên trong đơn vị chuyên môn phải có tinh thần thân ái, hợp tác, bao dung với đồng nghiệp trong thực hiện công việc; đoàn kết thật thà, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi hành công vụ và trong cuộc sống.
(8) Cán bộ, giảng viên trong đơn vị chuyên môn phải luôn nỗ lực hướng tới các chuẩn mực trong giao tiếp ứng xử. Luôn tôn trọng, lắng nghe, tận tình hướng dẫn, giải thích cặn kẽ, khoa học về quy trình học tập, làm việc trong đơn vị, trong hệ thống chính trị của Nhà nước PQXHCN Việt Nam.
(9) Cán bộ, giảng viên trong đơn vị chuyên môn phải luôn nỗ lực hoàn thiện các chuẩn mực thuần phong mỹ tục trong truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, có ý thức bảo tồn, phát huy, học hỏi những giá trị chuẩn mực chân, thiện, mỹ sao cho đáp ứng tốt thực tiễn hội nhập, giao lưu toàn cầu trong thế giới phẳng, trong cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, cách mạng 4.0, trong đại dịch covid 19, và lộ trình hướng đến mục tiêu, khát vọng của chính phủ số, kinh tế số, văn hóa số, khát vọng Việt Nam thịnh vượng, hùng cường trong tương lai không xa.
Kết luận
Vận dụng chín giải pháp trên đồng bộ, khẩn trương, giảng viên và đơn vị chuyên môn mới tổng hợp, thống nhất và thực hành tốt những giá trị đạo đức cách mạng, mới trở thành những giảng viên trong môi trường giáo dục của hệ thống chính trị Việt Nam hiện đại, bản sắc, hội nhập, tạo được hiệu ứng tin tưởng, lan tỏa, tác động ảnh hưởng tích cực đến học viên và xã hội, mới có cơ sở để khắc phục các biểu hiện đạo đức giả đã được nhận diện, gọi tên.
Bài viết bàn luận, chia sẻ nhận diện và gọi tên các biểu hiện đạo đức giả xuất hiện, tồn tại trong đơn vị chuyên môn. Mong muốn giảng viên và đơn vị chuyên môn, sửa chữa các biểu hiện đạo đức giả, nâng cao đạo đức cách mạng, hoàn thiện giá trị bản thân, đơn vị, góp cho môi trường công vụ thời cách mạng công nghệ lần thứ tư và hội nhập toàn cầu trở nên sang trọng hơn, trân quý hơn.
Tài liệu tham khảo:
(1).Quyết định “Về việc phê duyệt đề án văn hóa công vụ” ngày 27/12/2018.
(2). (5). Hồ Chí Minh Toàn tập, Đạo đức cách mạng (Trần Lực), NXB Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2011, t11.
(3). Điều 12. Quy chế công chức Việt Nam, Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20/5/1950.
- Cứu quốc số 46, ngày 19/9/1945.
TS. GVCC. Nguyễn Thị Quế Anh, Học viện Chính trị Khu vực I